Tư liệu dịch: An ninh Khu vực
CẢI THIỆN CUỘC SỐNG: CÁC CHƯƠNG TRÌNH NHÂN ĐẠO VÀ TRỢ GIÚP CỦA QUÂN ĐỘI
Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 11/2004
HỢP TÁC GIỮA CÁC BANG VỚI CÁC QUỐC GIA
Vệ binh Quốc gia Hoa Kỳ đã tăng cường quan hệ dân sự-quân sự, hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng và cứu trợ nhân đạo thông qua các chương trình hợp tác với hơn 40 quốc gia.
Chương trình hợp tác với các quốc gia của Vệ binh Quốc gia được khởi xướng từ năm 1993 nhằm ứng phó với sự thay đổi mạnh mẽ về chính trị và quân sự sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ và Liên Xô tan rã. Các nhà lãnh đạo đã nêu vấn đề làm thế nào để Vệ binh Quốc gia – lực lượng đã đảm bảo sự tin cậy có tính chiến lược cho Hoa Kỳ trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh – có thể tiếp tục phát huy vai trò trong thời kỳ việc bảo vệ châu Âu không còn là động lực thúc đẩy chiến lược quốc phòng của Hoa Kỳ.
Vệ binh Quốc gia là lực lượng quân đội phục vụ lâu năm nhất ở Hoa Kỳ. Là lực lượng dân phòng trong thời kỳ thuộc địa và là cơ sở thành lập Vệ binh Quốc gia Hoa Kỳ hiện nay, lực lượng này đã ra đời từ trước khi lập quốc và đã hoạt động hơn 367 năm qua. Đến nay, Vệ binh Quốc gia có đủ năng lực và quyền hạn hỗ trợ cho Lục quân và Hải quân Hoa Kỳ ở nước ngoài, bảo vệ tổ quốc, đồng thời đối phó với thiên tai, chẳng hạn các trận cuồng phong.
Mỗi bang và lãnh thổ Hoa Kỳ đều có một lực lượng Vệ binh Quốc gia, vừa đóng vai trò là lực lượng Vệ binh Lục quân (Army Guard) hỗ trợ cho Lục quân vừa là Lực lượng Vệ binh không quân (Air Guard) hỗ trợ cho Không quân Hoa Kỳ.
NHỮNG ĐÓNG GÓP KHÔNG MỆT MỎI
Nhận thức được tính duy nhất và thế mạnh của những người lính - công dân, Vệ binh Quốc gia đã tiên liệu được khả năng góp phần củng cố nền hòa bình mới được kiến tạo thông qua Chương trình Quan hệ hợp tác với các quốc gia. Đơn giản như tên gọi của mình, Chương trình đã tạo cầu nối cho lực lượng Vệ binh Quốc gia ở các bang và các lãnh thổ của Hoa Kỳ với Bộ Quốc phòng của những quốc gia dân chủ mới ở Trung, Đông Âu và lục địa Á-Âu để họ có thể tiến hành các hoạt động hợp tác vì lợi ích chung.
Các sáng kiến quốc tế của Vệ binh Quốc gia nhằm vun đắp cho các nền dân chủ, khuyến khích các nền kinh tế thị trường, tăng cường hợp tác và ổn định khu vực và tạo điều kiện cho những người lính thuộc lục quân và không quân Vệ binh Quốc gia – cũng như các viên chức dân sự - giao lưu và học hỏi từ các quốc gia và nền dân chủ khác.
Hiện tại, lực lượng vệ binh ở các bang đã có quan hệ đối tác với 21 quốc gia trong khu vực phụ trách của Bộ Chỉ huy Khu vực châu Âu của Hoa Kỳ, 5 quốc gia trong khu vực phụ trách của Bộ Chỉ huy Trung ương Hoa Kỳ, 15 quốc gia trong khu vực phụ trách của Bộ Chỉ huy miền Nam Hoa Kỳ, và ba quốc gia khác trong khu vực phụ trách của Bộ Chỉ huy Thái Bình dương của Hoa Kỳ.
Các đơn vị thuộc Vệ binh Hoa Kỳ hỗ trợ cho tất cả các bộ chỉ huy chiến trường trên toàn thế giới: Bộ Chỉ huy miền Bắc và NORAD, Bộ Chỉ huy Chiến lược, Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương và phụ trách khu vực Hawwai, Alaska, Guarm và quần đảo Mairianas, đồng thời bố trí một lượng quân đáng kể tại châu Âu, châu Á, Nam Mỹ, Trung và Đông Nam Á, và các khu vực khác.
Vệ binh Quốc gia coi các chương trình đối tác là cơ sở để thiết lập quan hệ quân đội – quân đội và dành những lợi ích về kinh tế, chính trị và quân sự cho những quốc gia có lực lượng dân phòng hùng mạnh, đã được huấn luyện và động viên thực hiện lệnh nhập ngũ trong điều kiện khẩn cấp. Theo yêu cầu, Vệ binh Hoa Kỳ sẵn sàng tổ chức, cung cấp nhân viên, đào tạo và trang bị cho lực lượng dân phòng có hiệu quả để đảm bảo sự kiểm soát dân sự đối với quân đội.
Chương trình “Những người bạn dân quân” (Minuteman Fellows) của Vệ binh Quốc gia mỗi năm đã quy tụ hàng trăm công dân từ các nền dân chủ mới tập trung tại các bang đối tác tại Hoa Kỳ để tìm hiểu cách thức hỗ trợ và tham gia chương trình “Quê hương Mỹ quốc” của Vệ binh Quốc gia Hoa Kỳ trong quá trình bảo vệ tổ quốc, và cách thức điều hòa cuộc sống quân ngũ với sự nghiệp dân sự của những người lính Vệ binh Quốc gia.
Có một điều thú vị là Chương trình Quan hệ hợp tác với các quốc gia của Vệ binh Hoa Kỳ đã được khởi xướng và hoạt động trước khi sáng kiến Quan hệ Đối tác vì Hòa bình của NATO được thông qua và thực hiện. Cho tới nay sau gần 11 năm xây dựng, chương trình Quan hệ hợp tác với các quốc gia đã trở thành cơ sở chính để Hoa Kỳ có thể hỗ trợ Chương trình Quan hệ đối tác vì hòa bình. Chương trình hợp tác với các quốc gia đã mở rộng ra ngoài phạm vi quan tâm ban đầu của nó và cho đến nay đã có quan hệ đối tác tại châu Âu, Trung Á, vùng Viễn Đông, Caribê, Trung và Nam Mỹ. “Nhịp cầu tới Mỹ” trong chương trình này là cơ sở tăng cường quan hệ của Hoa Kỳ với các quốc gia dân chủ trên thế giới và tăng cường sự hiểu biết quốc tế ở cấp cơ sở.
QUY TRÌNH HỢP TÁC
Quá trình thiết lập quan hệ đối tác chính thức bắt đầu từ đề nghị của nước chủ nhà với Đại sứ Hoa Kỳ tại quốc gia đó. Sau đó, Đại sứ sẽ chính thức đề nghị vị Chỉ huy Chiến trường, đến lượt mình, Chỉ huy Chiến trường sẽ đề nghị Tư lệnh Vệ binh Quốc gia chọn một tiểu bang để thiết lập quan hệ đối tác. Tư lệnh Vệ binh Quốc gia lựa chọn một tiểu bang làm đối tác trên cơ sở những tiêu chí chính trị, quân sự và kinh tế-xã hội phù hợp với nhu cầu và khả năng của nước chủ nhà và tiểu bang. Việc lựa chọn như vậy sau đó được chuyển tới Chỉ huy Chiến trường để có kết luận cuối cùng. Sau khi công bố công khai, quan hệ đối tác sẽ chính thức được bắt đầu qua một buổi lễ tổ chức tại quốc gia đối tác.
NHỮNG MỤC TIÊU HỢP TÁC AN NINH
Chương trình Quan hệ đối tác với các quốc gia cố gắng đạt được những mục tiêu hợp tác an ninh sau:
- Tăng cường khả năng tác chiến giữa Hoa Kỳ với các lực lượng vũ trang của các quốc gia đối tác.
- Đảm bảo sự chấp hành của quân đội trước chính quyền dân sự.
- Đảm bảo sự hậu thuẫn của quân đội với bộ máy lãnh đạo dân sự.
- Giúp đỡ xây dựng các thể chế dân chủ. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nền kinh tế thị trường mở để tăng cường sự ổn định.
- Phổ biến và thể hiện rõ những giá trị nhân đạo của Hoa Kỳ.
Hợp tác an ninh liên quan tới ít nhất 16 loại chương trình và các cuộc trao đổi từ giáo dục quân sự chuyên nghiệp cho tới bồi dưỡng lãnh đạo dân sự.
Những tài liệu của Cục Đối ngoại, Vệ binh Quốc gia Hoa Kỳ, đã được tổng hợp và điều chỉnh cho bài viết này.
CHƯƠNG TRÌNH QUAN HỆ HỢP TÁC VỚI CÁC QUỐC GIA CỦA VỆ BINH QUỐC GIA
State | Partner | State | Partner |
Alabama (AL) | Romania | Missouri (MO) | Panama |
Alaska (AK) | Mongolia | Montana (MT) | Kyrgyzstan |
Arizona (AZ) | Kazakhstan | Nebraska (NE) | Czech Republic |
Arkansas (AR) | Guatemala | Nevada (NV) | Turkmenistan |
California (CA) | Ukraine | New Hampshire (NH) | El Salvador |
Colorado (CO) | Slovenia | New Jersey (NJ) | Albania |
Connecticut (CT) | Uruguay | New York (NY) | South Africa |
District of Columbia (D.C.) | Jamaica | North Carolina (NC) | Moldova |
Florida (FL) | Venezuela/Guyana | Ohio (OH) | Hungary |
Georgia (GA) | Georgia | Oklahoma (OK) | Azerbaijan |
Hawaii/Guam (HI) | Philippines | Pennsylvania (PA) | Lithuania |
Illinois (IL) | Poland | Puerto Rico | Honduras/Dominican Republic |
Indiana (IN) | Slovakia | Tennessee (TN) | Bulgaria |
Kansas (KS) | Armenia | Texas (TX) | Czech Republic |
Kentucky (KY) | Ecuador | Utah (UT) | Morocco |
Louisiana (LA) | Belize / Uzbekistan | Vermont (VT) | Macedonia |
Maryland (MD) | Estonia/Bosnia | Virginia (VA) | Tajikistan |
Massachusetts (MA) | Paraguay | Washington (WA) | Thailand |
Michigan (MI) | Latvia | West Virginia (WV) | Peru |
Minnesota (MN) | Croatia | Wisconsin (WI) | Nicaragua |
Mississippi (MS) | Bolivia | |