jump over navigation bar
Embassy SealBộ Ngoại giao Hoa Kỳ
Đại sứ quán Hoa Kỳ - Hanoi, Vietnam flag graphic
Thông tin cập nhật
 
  Trung tâm Thông tin Tư liệu Các dịch vụ của IRC Dịch vụ Reference Update Tư liệu dịch Kinh tế & Thương mại An ninh khu vực Các vấn đề toàn cầu Báo chí, truyền thông và công nghệ thông tin Chính trị, xã hội và văn hóa Mỹ Các chương trình trao đổi giáo dục Quan hệ Mỹ-Việt Góc Nghiên cứu Việt Nam-Hoa Kỳ Học tập ở Hoa Kỳ Cơ hội xin viện trợ/học bổng Các hoạt động dành cho công chúng

Tư liệu dịch: Các vấn đề toàn cầu

BÁO CÁO VỀ TỰ DO TÔN GIÁO QUỐC TẾ NĂM 2006
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, ngày 15/9/2006

VIỆT NAM

Hiến pháp và luật Việt Nam, cả hai đều quy định quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; tuy nhiên Chính phủ vẫn tiếp tục các biện pháp ngăn chặn các hoạt động có tổ chức của các nhóm tôn giáo mà Chính phủ cho là đi khác với đường lối và chính sách của nhà nước. Chính phủ cố gắng kiểm soát các hoạt động tôn giáo bằng một khuôn khổ pháp lý, theo đó việc tổ chức và hoạt động tôn giáo của tất cả các giáo phái phải được sự cho phép chính thức của Nhà nước.

Xét trên tổng thể, việc tôn trọng quyền tự do tôn giáo đã được cải thiện trong khoảng thời gian báo cáo này đề cập tới do Việt Nam tiếp tục quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế mệnh lệnh tập trung kiểu xã hội chủ nghĩa sang một xã hội mở cửa, có định hướng thị trường; tuy nhiên, một số cải cách pháp lý mang tính tích cực, vốn được áp dụng từ vài năm trước, vẫn còn trong giai đoạn đầu triển khai. Pháp lệnh Tín ngưỡng và Tôn giáo có hiệu lực từ năm 2004 trở thành khung pháp lý cơ bản chi phối việc hành đạo của các tôn giáo. Nghị định hướng dẫn thi hành pháp lệnh trên (số 22, ban hành năm 2005) đưa ra một số hướng dẫn cho các giáo phái tôn giáo trong việc đăng ký hoạt động và xin sự công nhận chính thức. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin Lành ban hành năm 2005 yêu cầu các quan chức hỗ trợ các hệ phái Tin Lành chưa được công nhận đi đăng ký hoạt động tôn giáo để họ có thể hành lễ một cách công khai. Với việc ban hành pháp lệnh Tín ngưỡng và Tôn giáo 2004, việc tham gia các hoạt động tôn giáo trong cả nước tiếp tục gia tăng, và các tín đồ Tin Lành ở Tây Nguyên báo cáo là tình hình đã có tiến bộ đáng kể. Hơn thế nữa, Chính phủ bắt đầu khuyến khích các hội thánh Tin Lành tại gia ở vùng núi Tây Bắc đến đăng ký, nhưng theo ghi nhận trong thời gian thực hiện báo cáo này, tiến độ đăng ký là rất chậm và Chính phủ tuyên bố rằng chỉ sáu giáo đoàn trước đây chưa đăng ký là được phép đăng ký hoạt động.

Mặc dù có một vài báo cáo đã xác nhận việc lực lượng công an sách nhiễu và đánh đập các tín đồ chưa đăng ký của các tôn giáo chưa được công nhận, tín đồ Tin Lành trên toàn miền Bắc xác nhận phần lớn các quan chức đã có thái độ tốt hơn đối với tôn giáo của họ, và nhìn chung tín đồ Tin Lành đã được phép tập trung cầu nguyện mà không bị sách nhiễu nhiều. Những hạn chế đối với giới chức sắc và tăng lữ của các hệ phái vẫn còn, và Chính phủ vẫn giữ vai trò chính trong việc kiểm soát những tôn giáo được công nhận. Các vị lãnh đạo tôn giáo sẽ gặp những hạn chế ở mức cao nhất nếu họ có những hoạt động mà Chính phủ cho là tuyên truyền chính trị hay có tính thách thức đối với Chính phủ. Chính phủ tiếp tục nghiêm cấm và chủ động không khuyến khích việc tham gia vào một hệ phái không được công nhận của Phật giáo Hòa Hảo. Chính phủ cũng tích cực hạn chế sự lãnh đạo của một giáo hội chưa được công nhận, Giáo hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam và duy trì quan điểm rằng với đội ngũ chức sắc lãnh đạo của giáo hội như hiện nay, giáo hội này sẽ không được công nhận. Giáo hội Công giáo đã báo cáo rằng Chính phủ Việt Nam tiếp tục nới lỏng những hạn chế đối với việc bổ nhiệm mục sư mới nhưng Giáo hội cũng bày tỏ mong muốn thành lập thêm các trường dòng ở miền Bắc.

Trong khoảng thời gian báo cáo này đề cập, Chính phủ đã trả tự do cho bốn tù nhân tôn giáo quan trọng.

Mối quan hệ nhìn chung hòa thuận giữa các nhóm tôn giáo trong xã hội góp phần cải thiện sự tự do tôn giáo.

Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội và Tổng Lãnh sự Mỹ tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn có những liên lạc tích cực và thường xuyên với các quan chức cấp cao cũng như các quan chức chuyên trách của Chính phủ Việt Nam để thúc đẩy tự do tôn giáo hơn nữa. Các quan chức Hoa Kỳ cũng có những buổi tiếp xúc và liên lạc thường xuyên với lãnh đạo chức sắc tôn giáo, bao gồm cả các nhà hoạt động tôn giáo nằm trong danh sách theo dõi của Chính phủ. Ngài Đại sứ Mỹ và các quan chức Mỹ khác, kể cả Ngài Đại sứ Lưu động về Tự do Tôn giáo Quốc tế đều bày tỏ lo ngại với Thủ tướng, Phó Thủ tướng, các thành viên chính phủ, các nhà lãnh đạo Đảng và các quan chức địa phương khác về việc các tổ chức tôn giáo gặp khó khăn trong việc đăng ký và được công nhận, về việc giam giữ các lãnh đạo tôn giáo, những khó khăn mà các tín đồ Tin Lành ở Tây Nguyên và vùng núi Tây Bắc phải đối mặt và những hình thức hạn chế tự do tôn giáo khác.

Vào tháng 9 năm 2004, Ngoại trưởng Mỹ lúc đó, ông Colin Powell, đã đưa Việt Nam vào danh sách "các nước đặc biệt theo dõi" căn cứ theo Đạo luật về Tự do Tôn giáo Quốc tế vì Việt Nam đã có các vi phạm đặc biệt nghiêm trọng về tự do tôn giáo. Tháng 11 năm 2005, Ngoại trưởng Rice vẫn liệt Việt Nam vào danh sách trên nhưng có kèm theo lưu ý về những thay đổi tích cực trong vấn đề tự do tôn giáo trong năm 2005, bao gồm việc Chính phủ Việt Nam trao đổi thư với Hoa Kỳ, đưa ra một số cam kết về tôn trọng và bảo vệ tự do tôn giáo vào tháng 5 năm 2005.

Phần I. Các tôn giáo

Việt Nam có diện tích khoảng 330.000 km2 với dân số khoảng 83.5 triệu người. Chính phủ chính thức công nhận một Giáo hội Phật giáo (tín đồ Phật giáo chiếm khoảng 50% dân số), Giáo hội Công giáo (8-10% dân số), một số tổ chức của đạo Cao Đài (1,5-3% dân số), một tổ chức của giáo phái Hòa Hảo (1,5-4% dân số), hai tổ chức đạo Tin Lành (0,5-2% dân số), và một tổ chức Hồi giáo (dưới 0,1% dân số). Có nhiều tín đồ thuộc các tổ chức tôn giáo không được nhà nước chính thức công nhận. Còn lại phần lớn người Việt Nam tự nhận mình không theo tôn giáo nào, mặc dù rất nhiều trong số họ vẫn giữ các tín ngưỡng truyền thống như việc thờ cúng tổ tiên và thờ các anh hùng dân tộc.

Phật giáo là tôn giáo chính. Các phật tử đã hành lễ hỗn hợp của Phật giáo Đại thừa (Mahayana Buddhism), đạo Lão, Nho giáo mà đôi khi được gọi là “tam giáo đồng nguyên”. Ước tính có khoảng hơn một nửa dân số trên danh nghĩa là theo đạo Phật. Ủy ban của Chính phủ về các vấn đề Tôn giáo thì đưa ra một con số ít hơn nhiều, khoảng 12% dân số (10 triệu người) theo Phật giáo Đại thừa, phần lớn trong số đó là dân tộc Kinh, sống ở khắp nơi trên đất nước, đặc biệt là các khu vực đông dân cư ở đồng bằng châu thổ phía bắc và nam. Ở một số khu vực cao nguyên có ít các phật tử hơn, tuy rằng sự di cư của người Kinh đến các vùng này đang phần nào thay đổi sự phân bố. Nhóm người Khơ-me thiểu số ở miền Nam thì hành đạo theo Phật giáo Nam tông. Với số lượng khoảng hơn 1 triệu người, hầu hết họ sống tập trung ở châu thổ sông Mê Kông.

Ước tính có khoảng 6 đến 8 triệu tín đồ Công giáo La Mã ở Việt Nam, mặc dù thống kê chính thức của Chính phủ là 5.570.000. Tín đồ Công giáo sinh sống trên khắp mọi miền đất nước, nhưng tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Nam xung quanh Thành phố Hồ Chí Minh, tại một vài nơi ở cao nguyên Trung bộ và ở các tỉnh phía Đông Nam Hà Nội. Công giáo đã được khôi phục lại ở nhiều khu vực với nhiều nhà thờ được xây mới hoặc cải tạo lại trong những năm gần đây, và số tín đồ ngày một gia tăng.

Đạo Cao Đài bắt đầu xuất hiện từ năm 1926 ở miền Nam Việt Nam. Chính phủ chính thức thống kê là có 2,4 triệu tín đồ theo đạo Cao Đài, tuy nhiên các chức sắc đạo Cao Đài thường xuyên cho rằng phải có ít nhất 4 triệu tín đồ. Các nhóm tôn giáo Cao Đài là những hệ phái tôn giáo hoạt động sôi nổi nhất ở tỉnh Tây Ninh, nơi có thánh tượng “Thiên Nhãn”, ở Thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng sông Cửu Long. Đạo Cao Đài có 13 hệ phái riêng biệt với hệ phái lớn nhất là phái Tây Ninh, chiếm hơn một nửa tín đồ đạo Cao Đài. Đạo Cao Đài là một sự dung hợp các yếu tố của nhiều đức tin khác nhau. Một tổ chức Cao Đài nhỏ, phái Thiên Tiên, được chính thức công nhận năm 1995. Phái Cao Đài Tây Ninh thì được công nhận năm 1997.

Đạo Hòa Hảo, một tông phái Phật giáo, được khai lập ở miền Nam Việt Nam năm 1939. Theo thống kê của Chính phủ, có khoảng 1,6 triệu tín đồ theo giáo phái Hòa Hảo, trong khi con số do những chi nhánh hải ngoại thống kê là có khoảng 3 triệu. Các tín đồ theo giáo phái Hòa Hảo phần lớn tập trung ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là ở các tỉnh như An Giang và Đồng Tháp, nơi mà giáo phái Hòa Hảo thống trị trong lĩnh vực xã hội, chính trị, và quân sự trước năm 1975. Ban Trị sự Hòa Hảo do nhà nước công nhận được thành lập vào năm 1999. Nhiều tín đồ Hòa Hảo theo các chi phái không được công nhận chính thức khác.

Ước tính con số về tín đồ đạo Tin Lành trong cả nước dao động từ 500 nghìn (theo con số chính thức của Chính phủ) lên 1,6 triệu (theo ước tính của các nhà thờ) hoặc cao hơn thế. Hai hội thánh Tin Lành được chính thức công nhận là Hội thánh Phúc âm miền Nam Việt Nam (Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam) được công nhận vào năm 2001, và Hội thánh Phúc âm miền Bắc Việt Nam (Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Bắc), có quy mô nhỏ hơn nhiều, được công nhận từ năm 1963. Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam có chi hội ở khắp các tỉnh miền Nam. Các con số thống kê cho thấy trong vòng một thập kỷ qua, số lượng tín đồ Tin Lành đã tăng lên 600%, bất chấp những quy định ngặt nghèo của Chính phủ đối với các hoạt động cải đạo. Một số những con chiên được cải đạo này là những tín đồ thuộc các hội thánh tại gia không đăng ký. Theo tính toán của các tín đồ, 2/3 tín đồ đạo Tin Lành là người dân tộc thiểu số như dân tộc H’mông, Dao, Thái và các dân tộc khác trên cao nguyên Tây Bắc và cao nguyên Trung Bộ (Ê-đê, Gia-rai, Bà-nà, Kờ-ho và các dân tộc khác).

Các nhà thờ Hồi giáo, phục vụ một lượng người Hồi giáo ít ỏi ở Việt Nam, dự đoán vào khoảng 50 đến 80 nghìn người, hoạt động ở Tỉnh miền tây An Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các tỉnh thành duyên hải miền Nam. Cộng đồng người Hồi giáo bao gồm phần lớn là người dân tộc Chăm, tuy nhiên ở Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh An Giang, có cả một số người thuộc các dân tộc khác của Việt Nam và dân nhập cư từ Malaysia, Inđônêsia và Ấn Độ. Khoảng một nửa dân Hồi giáo ở Việt Nam thực hành Hồi giáo theo dòng Sunni. Người Hồi giáo Sunni tập trung ở 5 vùng trên đất nước. Khoảng 15.000 sống ở huyện Tân Châu, tỉnh An Giang (giáp biên giới Campuchia). Khoảng 3.000 người sống ở tỉnh Tây Ninh (giáp biên giới Campuchia). Hơn 5.000 người ở Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có 2.000 người ở tỉnh giáp ranh Đồng Nai. Khoảng 5.000 người ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ Ninh Thuận và Bình Thuận. Khoảng 50% người Hồi giáo theo đạo Chăm Bàni, một đạo Hồi giáo riêng biệt của người Chăm ở miền biển Trung Bộ. Cả hai dòng Hồi giáo trên đều tỏ ra tuân thủ nhà nước và được tự do sinh hoạt tín ngưỡng của mình. Họ có ít liên hệ với người Hồi giáo ở nước ngoài.

Còn một số cộng đồng tôn giáo nhỏ khác không được Chính phủ công nhận, trong đó cộng đồng lớn nhất là người Hindu. Có khoảng 50.000 người Chăm ở miền duyên hải Nam Trung Bộ theo đạo Hindu. Khoảng 4.000 người Hindu sống ở Thành phố Hồ Chí Minh, một số là dân tộc Chăm, nhưng phần lớn là người Ấn Độ hoặc thế hệ lai Việt-Ấn.

Có khoảng 6.000 tín đồ theo đạo Baha’i, phần lớn tập trung ở miền Nam. Theo các chức sắc của đạo Baha’i thì trước năm 1975 đạo này có khoảng 200 nghìn tín đồ. Nhưng trong giai đoạn 1975-1992, việc sinh hoạt công khai của đạo này bị nghiêm cấm và số tín đồ vì thế cũng giảm mạnh trong giai đoạn này. Từ năm 1992, người theo đạo Baha’i đã có những buổi họp mặt không chính thức. Lãnh đạo cộng đồng này cho biết họ có quan hệ tốt với chính quyền và có thể tiến hành cầu nguyện mà không bị sách nhiễu nhiều. Vào giai đoạn cuối của quãng thời gian báo cáo này đề cập, tín đồ Baha’i đang chuẩn bị hồ sơ xin đăng ký và công nhận theo khung pháp lý mới.

Có khoảng vài trăm tín đồ của Giáo phái chủ trương cánh chung của Thánh Ðồ Giêsu Kitô (hay còn gọi là giáo phái Mormon) sống rải rác khắp Việt Nam, nhưng phần lớn sống ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Giáo hội Mormon ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng đang chuẩn bị đơn xin đăng ký theo khung pháp lý mới về tôn giáo vào giai đoạn cuối của quãng thời gian mà báo cáo này được đưa ra.

Ít nhất có 10 giáo đoàn với số lượng khoảng vài trăm tín đồ mỗi giáo đoàn, thuộc đạo Những nhân chứng của Giê-hô-va đang hoạt động nhưng không được chính thức công nhận. Phần lớn những giáo đoàn này ở miền Nam với 5 giáo đoàn ở Thành phố Hồ Chí Minh. Các giáo đoàn đạo Những nhân chứng của Giêhôva cũng đã đăng ký theo khung pháp lý mới trong quãng thời gian báo cáo này được đưa ra.

Khoảng 14 triệu người, chiếm khoảng 17% hoặc hơn, cho biết là họ không theo một tổ chức tôn giáo nào cả. Một số nguồn định nghĩa chặt chẽ những người được coi là theo đạo Phật, không tính những người chỉ đi lễ vào những ngày lễ hội. Theo định nghĩa này thì con số người không theo đạo sẽ cao hơn nữa, có lẽ lên đến 50 triệu. Không có số liệu nào thống kê về mức độ tham gia vào những nghi lễ tôn giáo chính thức, nhưng người ta cho rằng con số này vẫn tiếp tục tăng lên từ đầu những năm 1990.

Các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14% dân số cả nước. Về lịch sử, người dân tộc thiểu số thường giữ những tín ngưỡng truyền thống khác với người Kinh. Nhiều dân tộc thiểu số, cụ thể như dân tộc H’mong, Dao và Gia Rai, nay đã cải sang Công giáo hoặc Tin Lành.

Các nhà truyền giáo nước ngoài không được phép truyền giáo hay hành đạo. Tuy nhiên, nhiều nhà truyền giáo không khai báo từ một vài quốc gia khác vẫn hoạt động ở Việt Nam.

Phần II. Hiện trạng về tự do tôn giáo

Cơ sở pháp lý/chính sách

Hiến pháp, các văn bản pháp luật, và nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng năm 2003 về tôn giáo đều quy định công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Tuy nhiên, Chính phủ yêu cầu các tổ chức tôn giáo phải đăng ký tất cả các hoạt động tôn giáo và dùng yêu cầu này để giới hạn hoạt động trong một số trường hợp. Hơn thế nữa, Chính phủ tiếp tục hạn chế đáng kể việc hoạt động có tổ chức của những nhóm tôn giáo độc lập và những cá nhân mà Chính phủ coi là mối đe dọa cho uy tín và quyền lực của Đảng.

Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo mới, có hiệu lực từ ngày 15 tháng 11 năm 2004 trở thành văn bản pháp luật căn bản quy định hoạt động tôn giáo. Pháp lệnh này một lần nữa khẳng định lại quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, có thể theo hoặc không theo một tôn giáo cụ thể, và nghiêm cấm việc xâm phạm quyền tự do ấy. Tuy nhiên, pháp lệnh cũng nhấn mạnh việc “lợi dụng” tự do tín ngưỡng hoặc tôn giáo nhằm mục đích “phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước” là hành vi phạm pháp và sẽ đình chỉ hoạt động tôn giáo của các tổ chức, cá nhân khi hoạt động tôn giáo đó làm ảnh hưởng đến các truyền thống văn hóa của dân tộc. Pháp lệnh này tiếp tục duy trì sự quản lý và giám sát của nhà nước đối với các tổ chức tôn giáo. Theo quy định trong pháp lệnh, các giáo phái tôn giáo phải được chính thức công nhận hoặc đăng ký, và các hoạt động và nhân sự lãnh đạo của các giáo hội tôn giáo riêng lẻ phải được cơ quan chức năng địa phương phê duyệt. Việc thành lập các trường dòng và việc tổ chức và tuyển sinh vào các lớp học phải được các cấp chính quyền liên quan phê chuẩn. Đối với việc phong chức linh mục hoặc các chức sắc tôn giáo khác, sự phê chuẩn của chính quyền chỉ mang tính bắt buộc khi có liên quan đến yếu tố nước ngoài, như Tòa thánh Vaticăng. Pháp lệnh cũng đã nới lỏng ở một mức độ nhất định sự giám sát của nhà nước đối với tôn giáo. Ví dụ như, các tổ chức tôn giáo chỉ cần thông báo với các cấp chính quyền về hoạt động hàng năm của mình và về việc phong chức hay thuyên chuyển giáo sĩ, trong khi trước đây những việc này phải được phê chuẩn rõ ràng. Hơn nữa, Pháp lệnh cũng khuyến khích các nhóm tôn giáo hoạt động từ thiện trong lĩnh vực y tế và giáo dục, hai lĩnh vực trước đây bị hạn chế.

Vào tháng 2/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành “Chỉ thị về một số công tác đối với đạo Tin Lành”. Chỉ thị kêu gọi các cấp chính quyền hỗ trợ các hệ phái Tin Lành đã được công nhận trong việc xây dựng nhà thờ, đào tạo và bổ nhiệm mục sư. Chỉ thị còn chỉ đạo các cấp chính quyền phải giúp đỡ những giáo phái chưa được công nhận đi đăng ký giáo đoàn của mình để họ có thể sinh hoạt công khai, và tiến tới hoàn thiện các yêu cầu để có được sự công nhận toàn diện. Đề cập đến khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc, Chỉ thị hướng dẫn các cấp chính quyền trong việc giúp đỡ các nhóm tín đồ đạo Tin Lành đăng ký và sinh hoạt tôn giáo tại gia hoặc tại những “địa điểm phù hợp”, cho dù họ chưa đáp ứng đủ điều kiện để thành lập một giáo đoàn chính thức. Chỉ thị cho phép các “hội thánh tại gia” chưa đăng ký được hoạt động nếu họ “cam kết tuân thủ các quy định pháp luật” và họ không liên kết với những phong trào chính trị ly khai.

Vào tháng 3/2005, Chính phủ ra nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (Nghị định số 22). Như trong Pháp lệnh, Nghị định nghiêm cấm việc cưỡng bức bỏ đạo. Nghị định cũng nêu rõ những thủ tục cần thiết để một tổ chức tôn giáo chưa được công nhận có thể đăng ký nơi thờ tự, người truyền đạo, những hoạt động của tổ chức, và theo đó được hoạt động công khai. Nghị định còn hướng dẫn thủ tục để những tổ chức tôn giáo này đăng ký công nhận chính thức từ Chính phủ để được hưởng thêm các quyền lợi khác. Nghị định nói rõ rằng một tổ chức tôn giáo phải có 20 năm “hoạt động tôn giáo ổn định” ở Việt Nam mới được nhà nước công nhận chính thức. Nghị định nói rằng hoạt động trong quá khứ, kể cả trước khi đăng ký, có thể được tính để đạt được mức yêu cầu 20 năm. Nghị định còn quy định khoảng thời gian cụ thể mà Chính phủ xem xét đơn của các tổ chức tôn giáo, và yêu cầu các cán bộ chuyên trách phải có giải trình bằng văn bản đến các tổ chức tôn giáo nếu đơn của họ bị từ chối.

Ban Tôn giáo Chính phủ có nhiệm vụ phổ biến thông tin về khung pháp lý mới đến cơ quan chức năng các cấp từ cấp tỉnh, quận, huyện, đến cấp thôn xã và đảm bảo sự tuân thủ thống nhất theo khung pháp lý mới này. Việc triển khai khung pháp lý mới ở cấp dưới còn chưa đầy đủ và chính xác. Tuy nhiên, trong suốt quãng thời gian báo cáo này đề cập tới, các cấp trung ương và cấp tỉnh đã tổ chức một số khóa tập huấn cho cán bộ cấp dưới về các điều luật mới để đảm bảo cho các cán bộ ở các cấp trên hiểu và tuân thủ đúng khung pháp lý này. Chính quyền ở một số khu vực đã tích cực huy động các chức sắc tôn giáo thực hiện những thay đổi mới, đặc biệt là trong việc đăng ký cho các nhóm Tin Lành và tái mở cửa các nhà thờ bị đóng cửa ở Tây Nguyên. Chính quyền ở các khu vực khác, đặc biệt như vùng núi Tây Bắc, ít chủ động hơn trong việc áp dụng những quy định mới của cấp Trung ương, tuy rằng điều kiện hoạt động của các tín đồ Tin Lành ở khu vực này nhìn chung đã được cải thiện trong suốt quãng thời gian nêu trong báo cáo này.

Quyền cơ bản về tự do tín ngưỡng và tôn giáo được truyền đạt và thi hành không đồng đều. Ở một số nơi, quan chức địa phương cho phép các tín đồ sinh hoạt tín ngưỡng khá tự do, trong khi ở một số tỉnh khác, các tín đồ thuộc các tổ chức tôn giáo không được công nhận đôi khi phải chịu sự quấy nhiễu đáng kể. Điều này đặc biệt đúng đối với các tín đồ đạo Tin Lành ở Tây Bắc và ở một số cộng đồng nông thôn ở các tỉnh miền Trung và miền Nam, bao gồm cả một số vùng ở Tây Nguyên. Trong quãng thời gian báo cáo này đề cập tới, chính quyền địa phương ở vùng Tây Bắc đã có các cuộc thảo luận với các chức sắc tôn giáo và chính quyền trung ương về vấn đề đăng ký hoạt động cho các hội thánh tại gia hoặc việc công nhận những giáo đoàn mới; tuy nhiên, theo tin từ Chính phủ, chỉ có 6 giáo đoàn Tin Lành mới được đăng ký, và không một tôn giáo mới nào được công nhận trong suốt quá trình báo cáo này được tường trình.

Những điều khoản về an ninh quốc gia và đoàn kết dân tộc trong Hiến pháp đã vượt mặt nhiều luật về tự do tôn giáo. Có những báo cáo cho rằng những điều khoản này đã từng được sử dụng để ngăn cản tụ họp tôn giáo và phổ biến tôn giáo đến một số dân tộc thiểu số. Bộ luật Hình sự, sửa đổi năm 1997, quy định hình phạt cho những tội danh được định nghĩa mơ hồ là “có chủ định phá hoại thống nhất đất nước” bằng việc thúc đẩy “sự chia rẽ giữa các tín đồ tôn giáo và người không theo tôn giáo nào”. Trong một số trường hợp, chính quyền viện dẫn Điều 258 Bộ Luật hình sự để buộc tội người dân hoạt động tôn giáo bất hợp pháp. Điều 258 cho phép thi hành hình phạt tù đến 3 năm nếu “lạm dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tổ chức, hội họp và các quyền tự do dân chủ khác nhằm mục đích xâm phạm đến lợi ích nhà nước”. Ví dụ điển hình của những trường hợp trên có thể tìm thấy trong cộng đồng các tín đồ Tin Lành người H’mông ở Tây Bắc, tín đồ Tin Lành người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên (còn được biết đến với tên gọi Tín đồ Tin Lành Phái núi), và các tín đồ đạo Hòa Hảo. Trong trường hợp ở Tây Nguyên, cán bộ chính quyền tiếp tục lo ngại về việc các nhóm ở trong và ngoài nước còn khuyến khích việc truyền bá một hình thức đạo Tin Lành nhằm xúi giục các dân tộc thiểu số đi theo đường lối đòi độc lập và ly khai.

Nghị định 31, một chỉ thị năm 1997 về quản chế hành chính, cho phép cán bộ an ninh quốc gia và địa phương một phạm vi quyền hạn rộng, đủ để giam giữ và theo dõi công dân, kiểm soát nơi họ sống và làm việc trong thời gian tới 2 năm nếu họ bị coi là mối đe dọa cho “an ninh quốc gia”. Trong một số trường hợp, chính quyền đã sử dụng hình thức quản chế hành chính để áp đặt những hạn chế đáng kể đối với quyền tự do đi lại nhằm quản chế những người bị coi là có chính kiến đòi độc lập và lật đổ. Vào tháng 10/2003, có ít nhất bốn chức sắc lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam (UBCV) bị áp dụng quản chế hành chính hai năm. Trong thời gian thực hiện báo cáo, việc di chuyển của họ bị hạn chế. Ví dụ như vào năm 2006, Hòa thượng Hội trưởng Thích Quảng Độ đã bị ngăn không được đi từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Bình Định để thăm Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang của UBCV đang lâm bệnh.

Chính phủ không ưu tiên một tôn giáo cụ thể nào và hầu hết các cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước, cũng như phần lớn các đại biểu Quốc hội đều chính thức “không tôn giáo”, mặc dù nhiều người vẫn công khai thờ cúng tổ tiên và đi lễ tại các chùa Phật giáo. Vị thế nổi trội mang tính truyền thống của đạo Phật không gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền tự do tôn giáo của người khác, kể cả đối với những người không muốn theo một tôn giáo nào cả.

Chính phủ yêu cầu các nhóm tôn giáo phải đăng ký. Chính phủ sử dụng quá trình này để giám sát và đôi khi kiểm soát các tổ chức tôn giáo, như Chính phủ kiểm soát các tổ chức xã hội khác.

Chính phủ chính thức công nhận các tổ chức Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài và Hồi giáo. Các giáo đoàn đơn lẻ trong các nhóm tôn giáo này cũng phải đăng ký. Một số chức sắc lãnh đạo của các tổ chức Phật giáo, Tin Lành, Hòa Hảo và Cao Đài khác cũng như tín đồ của các tổ chức tôn giáo này không tham gia vào các hiệp hội được Chính phủ phê chuẩn.

Nghị định Hướng dẫn Thi hành số 22 quy định rõ những thủ tục mà các tổ chức tôn giáo và các giáo đoàn tôn giáo đơn lẻ phải làm để được chính thức công nhận. Nghị định cũng quy định cụ thể rằng các cơ quan chức năng phải có trả lời bằng văn bản cho các đơn yêu cầu trong phạm vi Thành phố Hồ Chí Minh trong vòng 30, 45, 60 hoặc 90 ngày tùy thuộc vào phạm vi của đơn yêu cầu. Trong trường hợp đơn thư bị từ chối, văn bản phúc đáp phải nêu rõ lý do đơn thư bị từ chối. Tuy nhiên, Pháp lệnh không quy định một cơ chế cụ thể cho việc kháng cáo, cũng như không phân định ranh giới những lý do từ chối.

Ngay trong giai đoạn đầu thực hiện báo cáo này, có một số giáo hội Tin Lành chưa được công nhận đã tiến hành đăng ký theo khung pháp lý mới về tôn giáo. Tuy nhiên, theo Nghị định 22, kể từ sau ngày 15/11/2004 (ngày bắt đầu có hiệu lực của pháp lệnh), phải trải qua thời hạn 1 năm thì một giáo phái mới, đáp ứng đầy đủ các điều kiện thích hợp, mới được công nhận và những đơn đăng ký này đã bị trì hoãn duyệt. Để được công nhận, một giáo phái phải được nhà nước phê duyệt về người lãnh đạo, cơ cấu tổ chức, phạm vi hoạt động của giáo phái. Về mặt nguyên tắc, những giáo phái đã được công nhận sẽ được phép mở cửa, hoạt động, tu bổ lại cơ sở thờ tự, đào tạo chức sắc, xin phép xuất bản tài liệu.

Việc đăng ký yêu cầu các chi hội sẽ phải nộp lên cơ quan chức năng thông tin về cơ cấu tổ chức, người lãnh đạo và các hoạt động của mình. Cơ quan chức năng sau đó sẽ có 45 ngày để xem xét và nghiên cứu. Việc đăng ký cấp quốc gia có thời hạn xem xét là 60 ngày. Ban Tôn giáo Chính phủ phải cấp một giấy phép trước khi một tổ chức được coi là đã đăng ký. Các giáo hội Cơ đốc Phục lâm, Báptít Ân Điển, và Giáo hội Tin Lành Menno của Mục sư Nguyễn Trung đã đăng ký tại Thành phố Hồ Chí Minh theo các điều khoản pháp lý mới này. Các đơn đăng ký của Giáo hội Truyền giáo Thế giới Thống nhất, Giáo hội Mormon, Hội thánh Những nhân chứng Giê-hô-va, Giáo hội Ngũ tuần Việt Nam, và Tổ chức Trưởng lão Presberian Relief đang trong quá trình xét duyệt. Hơn 500 giáo đoàn Hội thánh Phúc âm miền Bắc Việt Nam – Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Bắc trong tổng số 1.072 giáo đoàn chưa được công nhận ở Tây Bắc đã làm đơn đăng ký trong quá trình thực hiện báo cáo này, nhưng theo thông báo của Chính phủ, chỉ có 6 giáo đoàn được phép đăng ký tính đến thời điểm cuối khi báo cáo này được tường trình. 6 giáo đoàn này là một phần trong dự án thử nghiệm của Ủy ban Tôn giáo Chính phủ nhằm bắt đầu triển khai việc đăng ký ở các tỉnh biên giới như Lai Châu, Lào Cai và Hà Giang. Ủy ban Tôn giáo Chính phủ viện lý do hạn chế về nguồn lực đã buộc họ chỉ tập trung vào ba tỉnh trên trong giai đoạn đầu của quá trình triển khai việc đăng ký.

Ngoại trừ một số vùng ở cao nguyên Trung Bộ và Tây Bắc, những tổ chức tôn giáo được chính thức công nhận đang được phép hoạt động công khai và tín đồ của những tổ chức này được sinh hoạt tín ngưỡng thoải mái không gặp phiền nhiễu gì. Các tổ chức tôn giáo được đăng ký và chính thức công nhận phải đăng ký với các cơ quan chức năng về hoạt động thường niên, việc thuyên chuyển và thăng chức cho mục sư với cơ quan chức năng. Việc tổ chức các hội nghị, đại hội đồng, mở trường đào tạo, tuyển sinh vào trường dòng, tiếp nhận quyên góp từ tín hữu, xây dựng và cải tạo cơ sở thờ tự, tham gia các khóa học tôn giáo ở nước ngoài vẫn cần phải được chính quyền phê chuẩn. Việc phong chức cho mục sư mới và phong chức cho chức sắc tôn giáo, như Giám mục cũng phải đăng ký với Chính quyền. Tuy nhiên, nếu có liên quan đến “yếu tố nước ngoài” như Vaticăng thì cần phải được cơ quan chức năng phê chuẩn trước.

Do không có một quy trình hợp lý trong hệ thống pháp lý và việc giám sát ở cấp cao không phù hợp, nên hoạt động của các tín đồ tôn giáo có thể chịu sự chi phối theo quyết định chủ quan của cán bộ địa phương theo phạm vi thẩm quyền của họ. Ví dụ như, trong một số trường hợp nhất định các nhóm Tin Lành được và không được công nhận đã có thể thoát được sự sách nhiễu của chính quyền địa phương hoặc đảo ngược các quyết định tiêu cực của chính quyền địa phương khi các nhóm này kháng án lên cơ quan chức năng ở cấp cao hơn. Trong các trường hợp khác, việc kháng án không chính thống này tỏ ra không hiệu quả. Trong vài trường hợp, có người đã tường thuật rằng cán bộ địa phương đã nói thẳng với chức sắc giáo hội rằng luật quốc gia không áp dụng đối với thẩm quyền của họ. Không có báo cáo nào cho thấy có hình thức kỷ luật đối với cán bộ nhà nước không tuân thủ các luật về bảo vệ tôn giáo, mặc dù Quốc hội đã ban hành một nghị quyết về nạn nhân của các trường hợp xử oan vào năm 2003, theo đó sẽ có các kênh để công dân bị xử oan có thể đòi bồi thường khi bị xử oan.

Việt Nam không có ngày lễ tôn giáo quốc gia.

Những biện pháp hạn chế tự do tôn giáo

Chính phủ Việt Nam áp đặt nhiều biện pháp hạn chế tự do tôn giáo, mặc dù trong nhiều lĩnh vực, các phật tử, các tín đồ Công giáo, đạo Tin Lành, đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài và bản thân Chính phủ cũng nhận thấy các hoạt động tôn giáo đang nhiều hơn. Các tổ chức tôn giáo được chính thức công nhận gặp phải khó khăn trong việc tiếp nhận tài liệu giảng dạy, mở rộng cơ sở đào tạo, xuất bản tài liệu tôn giáo, mở rộng đào tạo giới tăng lữ do yêu cầu tăng lên từ các giáo đoàn. Tuy nhiên, Chính phủ tiếp tục nới lỏng những biện pháp hạn chế này so với những năm trước.

Chính phủ vẫn tiếp tục nghiêm cấm và không khuyến khích việc tham gia vào những tổ chức tôn giáo chưa được công nhận, bao gồm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (UBCV) và một số nhóm Tin Lành, Hòa Hảo và Cao Đài. Những hoạt động có tổ chức của những nhóm này bị coi là vi phạm pháp luật, mặc dù hiệu lực của những lệnh cấm này khác nhau sâu sắc.

Chính phủ yêu cầu tất cả các nhà sư phải được phê chuẩn và hoạt động trong khuôn khổ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Chính phủ có tác động đến việc tuyển chọn các vị lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngoại trừ những chức sắc của tổ chức UBCV trước năm 1981. Số lượng các học viện Phật giáo bị quản lý và giới hạn bởi Văn phòng Các vấn đề Tôn giáo, mặc dù số lượng các học viện Phật giáo ở tỉnh và địa phương tăng lên nhiều trong những năm gần đây ngoài một số học viện tương đương đại học.

Chính phủ tiếp tục phản đối việc UBCV muốn hoạt động độc lập. Năm 2003, các hòa thượng cao cấp của UBCV đã tổ chức một hội nghị tại một tu viện ở tình Bình Định mà không được Chính phủ cho phép. Sau hội nghị, bốn hòa thượng đã bị bắt giam và bị kết án hai năm “quản chế hành chính” tại chùa của họ mà không cần đưa ra tòa. Chính quyền địa phương không cung cấp cho họ một văn bản nào về quyết định bị quản chế hành chính, mặc dù pháp luật quy định như vậy. Nhiều nhà tu hành của UBCV khác cũng chịu những biện pháp xử lý tương tự như quản chế hành chính, như “quản thúc tại gia”, mặc dù họ không bị kết án gì. Hòa thượng Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ, Phó Hội trưởng UBCV cũng bị những hình phạt tương tự, mặc dù Chính phủ dường như không có điều tra về lời buộc tội “nắm giữ các bí mật quốc gia” dành cho các vị hòa thượng này. Tháng 10/2003, Hòa thượng Thích Quảng Độ dự định đi Quy Nhơn để thăm Hòa thượng Thích Huyền Quang. Với các lý do khác nhau, Hòa thượng Thích Quảng Độ đã bị ngăn cản không cho đi và bị công an áp giải bắt quay về chùa của mình ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Hòa thượng Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ được phép tiếp các thành viên khác của UBCV trong thời gian báo cáo này đề cập tới. Hòa thượng Thích Quảng Độ và một số lãnh đạo khác của UBCV đã có thể liên hệ với các đối tác nước ngoài.

Chính phủ vẫn duy trì quyền phủ quyết đối với việc bổ nhiệm Giám mục của Vatican; tuy nhiên, trên thực tế, Chính phủ đã cố gắng hợp tác với Giáo hội trong việc bổ nhiệm các chức sắc. Giáo hội Công giáo giáo điều hành sáu trường dòng với hơn 800 sinh viên theo học, cộng với một khóa đào tạo đặc biệt dành cho những sinh viên “lớn tuổi”. Tất cả học viên đều phải được chính quyền địa phương phê chuẩn trước khi nhập học và trước khi được phong chức linh mục. Giáo hội tin rằng số lượng học viên được phong chức linh mục hiện không đủ để phục vụ dân số Công giáo đang ngày càng tăng. Họ muốn mở thêm nhiều trường dòng nữa và muốn các lớp học được mở thường xuyên hơn. Giáo hội đã nộp đơn xin mở thêm một trường dòng nữa ở tỉnh Đồng Nai nhưng đến nay đã năm năm mà chính quyền địa phương vẫn tiếp tục trì hoãn chưa duyệt.

Việc sinh hoạt tín ngưỡng của đạo Tin Lành ở các tỉnh thuộc cao nguyên Trung Bộ Việt Nam vẫn còn là vấn đề gây bất đồng. Chính phủ quan ngại rằng một số nhóm dân tộc thiểu số hoạt động ở vùng này đang điều hành “Hội thánh Đề-ga” phối hợp hành lễ tôn giáo với hoạt động chính trị và kích động ly khai người dân tộc thiểu số.

Mặc dù có những tiến bộ trong thời gian báo cáo này đề cập tới, Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam và các nhà thờ tại gia ở các tỉnh Tây Nguyên như Gia Lai, Kon Tum, Đắc Nông tiếp tục bị Chính quyền giám sát chặt chẽ. Năm 2001, Chính phủ yêu cầu tất cả các giáo đoàn Tin Lành có quan hệ với Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam - với số lượng ít nhất là 1000 người - phải đóng cửa. Tuy nhiên, ít nhất một phần ba giáo đoàn Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam ở tỉnh Đắc Lắc bị đóng cửa năm 2001 vẫn chưa thể hoạt động lại, trong khi các tín đồ bị bắt buộc phải cầu nguyện tại nhà riêng. Một số nhà thờ Tin Lành tại gia chưa được công nhận, bao gồm Báptít, Giáo hội Trưởng lão, Giáo hội Thế giới Thống nhất cũng hoạt động tại Tây Nguyên. Các nhà thờ này cho biết tình hình của các giáo đoàn của họ đã được cải thiện đáng kể mặc dù một số trường hợp bị cảnh sát địa phương sách nhiễu vẫn tiếp tục diễn ra.

Chính phủ tiếp tục duy trì sự giám sát chặt chẽ của mình, và với mức độ thành công khác nhau, đã nỗ lực quản lý giới chức sắc, các hoạt động tôn giáo có tổ chức, và các hoạt động khác của các nhóm tôn giáo thông qua Ủy ban về Các vấn đề Tôn giáo ở các cấp trung ương và địa phương. Mặc dù những ủy ban này có nhiệm vụ là bảo vệ quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở các tổ chức được công nhận, trên thực tế có rất ít các biện pháp hiệu quả xử phạt những vi phạm về tự do tôn giáo do quan chức nhà nước gây ra.

Miền Bắc và Tây Bắc Việt Nam có hơn 120.000 tín đồ Tin Lành. Chỉ thị về Đạo Tin Lành của Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh tới sự có mặt của các tín đồ ở Tây Bắc và đã chỉ đạo quan chức địa phương hướng dẫn họ tìm “địa điểm phù hợp” để hành đạo theo tôn giáo của họ. Hơn 500 giáo đoàn Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Bắc đã đăng ký trong thời gian báo cáo này đề cập tới; tuy nhiên, hầu hết các đơn đăng ký hoặc đã bị bác bỏ, bỏ quên hoặc bị trả lại nguyên bộ hồ sơ. Chính phủ khẳng định đã có sáu hồ sơ thí điểm được chấp thuận tại các tỉnh Lai Châu, Hà Giang, Điện Biên trong tháng 6 và tháng 7, nhưng con số này chưa được nguồn tin độc lập khẳng định.

Giáo phái Hòa Hảo chịu một số hạn chế về tôn giáo và chính trị từ 1975, một phần là do sự chống đối vũ trang của họ với lực lượng cộng sản từ thời thực dân Pháp còn cai trị. Sau 1975, tất cả cơ sở hành chính, cơ sở thờ tự, các viện xã hội và văn hóa liên quan đến đạo Hòa Hảo đều bị đóng cửa. Các tín đồ tiếp tục hành đạo tại nhà riêng, nhưng do không được đến những nơi công cộng, cộng đồng Hòa Hảo bị cô lập và phân tán. Năm 1999, một cơ quan chính thức của đạo Hòa Hảo, Hội đồng Trị sự Hòa Hảo, được thành lập. Mùa xuân năm 2005, Hội đồng Trị sự Hòa Hảo mở rộng và đổi tên thành Ban Điều hành Phật giáo Hòa Hảo. Một số lãnh đạo của cộng đồng Hòa Hảo, bao gồm một số vị lãnh đạo trước năm 1975, công khai chỉ trích Ban Điều hành. Họ cho rằng ủy ban này quỵ luỵ Chính phủ và đòi quyền được chính thức công nhận cho Giáo hội Phật giáo Trung ương Hòa Hảo (HHCBC). Mặc dù chưa được công nhận, vào ngày 4/5/2005, HHCBC tổ chức một cuộc họp với sự tham gia của 126 đại biểu từ các tỉnh miền Nam. Tuy nhiên họ đã bị gây áp lực rất lớn. Hai thành viên của HHCBC, Trần Văn Thang và Trần Văn Hoàng, bị bắt giữ ngày 25/2/2005 và bị kết án 6 đến 9 tháng tù vì tội phát tán bất hợp pháp băng cát sét và đĩa DVD có nội dung giảng đạo của lãnh đạo HHCBC. Việc tổ chức kỷ niệm Ngày Thành lập trong tháng 6/2005 đã dẫn tới đụng độ giữa công an và những người phản đối việc Chính phủ kiểm soát đạo Hòa Hảo. Một thành viên Hòa Hảo khác tiếp tục khuyến khích các tín đồ của họ tự quyên sinh để phản đối sự đàn áp của Chính phủ. Tháng 9/2005, hai nhà hoạt động của Hòa Hảo đã tự quyên sinh khi công an cố bắt họ vì đã tham gia vào các vụ đụng độ xảy ra trong tháng 6, dẫn tới một nhà hoạt động bị thiệt mạng. Bảy nhà hoạt động đã bị bắt giữ, xét xử và kết án từ bốn đến bảy năm tù. Tháng 8/2005, một nhà hoạt động của đạo Hòa Hảo đã cố gắng tự quyên sinh trước cổng Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh nhưng đã bị bảo vệ tại Tổng lãnh sự và công an địa phương ngăn chặn. Đụng độ giữa một số tín đồ Hòa Hảo và giới chức ở đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục diễn ra trong suốt thời gian báo cáo này đề cập tới.

Có sáu chi hội thuộc Giáo hội Cao Đài được chính thức công nhận ở miền Nam Việt Nam và một số chi hội khác vẫn chưa được công nhận. Những giáo phái này phân bố dọc theo chiều dài địa lý. Giáo phái Cao Đài lớn nhất ở tỉnh Tây Ninh, nơi giáo phái được thành lập vào năm 1926 và là trụ sở của lãnh đạo giáo phái. Hội đồng Trị sự Giáo hội Cao Đài tỉnh Tây Ninh được Chính phủ chính thức công nhận vào 1997. Các giáo phái Cao Đài độc lập buộc tội rằng sự can thiệp của Chính phủ đã làm hỏng tính độc lập của giáo phái Tây Ninh, rằng giáo phái Tây Ninh không còn trung thành duy trì những nguyên tắc và truyền thống của đạo Cao Đài. Việc đào tạo diễn ra tại các chùa Cao Đài riêng lẻ chứ không diễn ra ở trường lớp tập trung. Giới chức sắc đạo Cao Đài cho biết họ không có nhu cầu mở một trường dòng.

Không có quy định chính thức cấm việc cải đạo. Nhiều người cải đạo cho rằng các thủ tục quá phức tạp hoặc sợ bị chính quyền trừng phạt. Dường như rất hiếm có các trường hợp cải đạo chính thức, ngoại trừ trường hợp những người không theo đạo Thiên chúa kết hôn với các tín đồ Công giáo. Một số báo cáo cho biết nhiều giới chức ở địa phương tiếp tục cản trở việc cải đạo sang đạo Tin Lành bằng cách đe dọa cắt phúc lợi xã hội và giáo dục của họ.

Chính phủ kiểm soát và theo dõi tất cả các hình thức tụ họp nơi công cộng, bao gồm tụ họp tổ chức các hoạt động tôn giáo. Tuy nhiên, trong thời gian báo cáo này đề cập tới, một số cuộc tụ họp tôn giáo quy mô lớn đã được phép tổ chức.

Điều 35 Nghị định 22 quy định các nhóm truyền giáo hải ngoại phải được chính quyền cho phép mới được tiến hành các hoạt động cải đạo. Tuy nhiên, các hoạt động như vậy lại diễn ra dưới sự bảo trợ của một tổ chức tôn giáo trong nước hoặc ở địa phương. Nghị định này gây cản trở việc cải đạo công khai ngoài các trung tâm thờ tự đã được công nhận, bao gồm cả những nơi thờ tự của các cá nhân. Một số nhà truyền giáo đã đến thăm Việt Nam mặc dù quy định cấm chính thức như vậy và đã tiến hành một số hoạt động cải đạo không chính thức.

Hội thánh Liên hữu Tân sinh có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh phục vụ cộng đồng người nước ngoài và người dân trong nước và do một nhà truyền giáo lãnh đạo đã bị cấm tổ chức tụ họp tại các khách sạn ở Thành phố Hồ Chí Minh tháng 8/2005 sau khi hội tổ chức các buổi hành lễ dành riêng cho người dân địa phương trái quy định của luật. Kể từ đó tới nay, người nước ngoài tham gia Hội thánh Liên hữu Tân sinh có thể tập hợp thành từng nhóm nhỏ tại gia. Tháng 4/2006, Hội thánh Liên hữu Tân sinh đã tổ chức buổi hành lễ quy mô lớn đầu tiên cho người nước ngoài ở sân của một khách sạn dành cho người nước ngoài từ tháng 8/2005 ở Thành phố Hồ Chí Minh. Hội thánh vẫn đang thảo luận với thành phố và các quan chức chính phủ trung ương về việc tìm một giải pháp hợp pháp và lâu dài về quy chế của mình.

Chính sách của Chính phủ không cho phép người dân thuộc các nhóm tôn giáo không chính thức được phép phát biểu ý kiến công khai về tín ngưỡng của họ, nhưng vẫn có một số tiếp tục tiến hành giảng đạo và hành đạo mà không bị quấy nhiễu. Thành viên của các tổ chức tôn giáo có đăng ký, về mặt lý thuyết, được phép giảng đạo và thuyết phục người khác theo đạo của mình ở những địa điểm thờ tự được công nhận, chứ không được ở nơi khác. Ví dụ, nhóm Báptít ở tỉnh Bắc Giang gần Hà Nội bị giới chức địa phương cấm cải đạo ngay tại địa phương trong thời gian tường trình của báo cáo này, mặc dù họ hoàn toàn hợp pháp, với lý do tôn giáo của họ do các mục sư miền Nam truyền bá tại tỉnh này.

Chính phủ yêu cầu tất cả những ấn phẩm về tôn giáo phải do Nhà xuất bản Tôn giáo, trực thuộc Văn phòng các Vấn đề về Tôn giáo, ấn hành, hoặc phải do các nhà xuất bản được Chính phủ cho phép in ấn nhưng phải được Chính phủ phê duyệt nội dung trước. Một loạt những bản kinh Phật, kinh thánh và các ấn phẩm tôn giáo khác được xuất bản và phân phát công khai. Nhà xuất bản Tôn giáo đã in ấn 250.000 bản kinh phật Hòa Hảo, cùng với 100.000 bộ những lời giảng và tiên tri của nhà sáng lập; tuy nhiên các tín đồ đạo Hòa Hảo cho biết Chính phủ tiếp tục hạn chế việc phân phối toàn bộ kinh Phật, đặc biệt là tập thơ của nhà sáng lập. Ban Đại diện Hội Phật giáo Hòa Hảo chính thức nói rằng đó là do thiếu kinh phí chứ không phải do Chính phủ hạn chế. Hiệp hội Hồi giáo thì cho biết họ được in đầy đủ kinh Cô-ran vào năm 2000 để phân phát cho tất cả các tín đồ Hồi giáo ở Việt Nam. Kinh thánh được in bằng tiếng Việt, tiếng Trung Quốc và tiếng Anh, nhưng không được in ra tiếng dân tộc thiểu số. Một số tín đồ đạo Tin Lành người dân tộc thiểu số có những bản kinh thánh bằng tiếng dân tộc được in ở nước ngoài đã bị chính quyền tịch thu với lý do bất kỳ tài liệu “tiếng nước ngoài” nào chưa được Chính phủ công khai cho phép đều là bất hợp pháp. Giới chức Ban Tôn giáo Chính phủ không thể khẳng định liệu có bất kỳ tài liệu bằng tiếng dân tộc thiểu số nào được in ở nước ngoài nhưng đã được cấp phép hay không. Việc tịch thu các bộ kinh thánh bằng tiếng dân tộc thiểu số diễn ra đặc biệt nghiêm trọng trong các hội thánh dân tộc thiểu số ở một số tỉnh Tây Bắc.

Chính phủ cho phép đi lại vì mục đích tôn giáo, nhưng để tham gia vào các hội nghị tôn giáo và các khóa đào tạo ở nước ngoài thì phải được các cơ quan chức năng phê chuẩn. Các tín đồ theo đạo Hồi được phép hành hương đến thánh địa Mecca, các vị chức sắc Phật giáo, Công giáo, đạo Tin Lành nhìn chung là được đi ra nước ngoài học tập và dự hội nghị. Một số lãnh đạo các hội thánh Tin Lành tại gia cáo buộc Chính phủ rằng họ không được cấp hộ chiếu để đi nước ngoài. Ví dụ, một chức sắc của nhà thờ Tin Lành tại gia đã bị chính quyền tịch thu hộ chiếu năm 2004. Tuy nhiên, các vị lãnh đạo không chính thức khác thì đi nước ngoài thường xuyên. Cũng như những công dân khác, những người theo đạo sau khi đi nước ngoài về thường bị hỏi về hoạt động của họ khi trở về và bị yêu cầu phải nộp lại hộ chiếu. Tuy nhiên, việc này diễn ra ngày càng ít đi.

Việc đi theo tôn giáo nào không được ghi rõ trên chứng minh thư và “sổ hộ khẩu”. Thế nhưng trên thực tế, nhiều công dân có tôn giáo thường không ghi là có tôn giáo trên chứng minh thư, và chính phủ liệt họ vào dạng không tôn giáo. Không có điều khoản chính thức nào cấm việc thay đổi tôn giáo. Mặc dù có thể thay đổi mục tôn giáo trên chứng minh thư nhưng nhiều người đã gặp những thủ tục quá phiền hà hoặc sợ Chính phủ trừng phạt. Chính phủ không yêu cầu ghi tôn giáo trên hộ chiếu.

Trong nhiều trường hợp Chính phủ cho phép và khuyến khích mối giao lưu giữa các tổ chức tôn giáo được chính thức công nhận với các nhóm tôn giáo mộ đạo ở nước ngoài; tuy nhiên, Chính phủ đặc biệt ngăn cản UBCV liên lạc với những tín đồ Phật giáo ủng hộ họ ở nước ngoài.

Liên lạc giữa một số tổ chức Tin Lành chưa đăng ký với những thành phần ủng hộ ở nước ngoài bị Chính phủ ngăn cản nhưng vẫn diễn ra thường xuyên, bao gồm cả việc đào tạo, hỗ trợ tài chính và cung cấp tài liệu tôn giáo. Chính phủ đặc biệt thận trọng về sự liên lạc giữa các tín đồ Tin Lành “Đề-ga” ly khai ở Tây Nguyên với các tổ chức ủng hộ hải ngoại. Chính phủ coi Tin Lành Đề-ga là một nhóm lợi dụng tôn giáo vào mục đích quân sự để thiết lập một nhà nước tự trị của người dân tộc thiểu số.

Việc theo một tín ngưỡng nào đó nhìn chung không ngăn cản người dân tham gia vào đời sống kinh tế và những sinh hoạt đời thường, tuy nhiên nó cũng làm chậm quá trình thăng tiến trong Đảng Cộng sản, Chính phủ, và các cấp bậc trong quân đội. Quân đội không có chức giáo sĩ tuyên úy. Thừa nhận là có tôn giáo trước đây sẽ ngăn cản việc kết nạp Đảng, nhưng nay Đảng tuyên bố có đến hàng vạn trong số 3,1 triệu Đảng viên là các tín đồ tôn giáo. Nghị quyết Trung ương Đảng năm 2003 kêu gọi việc kết nạp và thăng chức cho nhiều tín đồ tôn giáo vào hàng ngũ của Đảng. Tín đồ và giới tăng lữ của nhiều tín ngưỡng hiện đang nắm giữ những chức vụ trong chính quyền tỉnh và địa phương, và là đại biểu Quốc hội. Đảng và Chính phủ thường xuyên đến thăm đền chùa, nhà thờ, và thậm chí đến cả một số những nhà thờ Tin Lành ở cao nguyên Trung Bộ nhân dịp Giáng sinh.

Chỉ thị hướng dẫn thi hành Pháp lệnh tôn giáo, tín ngưỡng quy định các ban về vấn đề tôn giáo địa phương phải cho phép xây dựng các cơ sở tôn giáo mới. Việc trùng tu các cơ sở tôn giáo chỉ cần thông báo cho chính quyền, một sự nới lỏng so với các quy định trước đây.

Chính phủ không cho phép giảng về tôn giáo ở các trường công lập tuy nhiên lại cho phép các mục sư giảng dạy ở các trường đại học các môn có liên quan đến chuyên môn đó. Các nhà sư được phép giảng dạy ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh trong khi các nữ tu sĩ và có một linh mục được phép giảng dạy tại các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, họ không được phép mặc lễ phục khi giảng dạy hoặc không để lộ ra mình là linh mục. Các nhóm Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo và Phật giáo được phép giảng đạo cho trẻ em. Việc giảng đạo Thiên chúa vào cuối tuần hoặc các buổi tối được phép tổ chức ở hầu hết các nơi và đã tăng lên trong những năm gần đây ở các nhà thờ khắp cả nước. Các nhà sư phái Tiểu Thừa của người Khơme và những người theo đạo Hồi của dân tộc Chăm thường xuyên tổ chức các lớp giảng đạo và ngôn ngữ cho trẻ em ngoài giờ học văn hóa tại các nhà chùa và nhà thờ Hồi giáo. Các nhóm tôn giáo không được phép mở các trường học độc lập, ngoại trừ mẫu giáo và nhà trẻ.

Các tổ chức tôn giáo không có quyền đòi lại đất đai và nhà cửa đã bị Nhà nước tiếp quản sau khi chiến tranh chống Pháp kết thúc vào 1954 và sau khi thống nhất đất nước năm 1975. Mặc dù vậy, chính quyền các cấp, nhất là ở cấp tỉnh, đã trả lại một số ít đất đai nhà cửa bị tịch thu và tiếp tục thảo luận về các bất động sản khác. Một phó chủ tịch Hội Phật giáo Việt Nam cho biết khoảng 30% các bất động sản bị tịch thu ở Thành phố Hồ Chí Minh đã được trả lại, và khoảng từ 5-10% bất động sản bị tịch thu ở miền Nam đã được trả lại. Các tổ chức Công giáo và Tin Lành được công nhận đã nhận lại được một số đất đai nhà cửa nhưng vẫn còn tranh chấp về những bất động sản khác. Một số đất đai nhà cửa cũng đã được trả lại cho Hội đồng Trị sự giáo phái Hòa Hảo, nhưng rất ít nhà cửa đất đai được trả lại cho đạo Cao Đài. Rất nhiều tài sản bị tịch thu trước kia là các trường đào tạo về tôn giáo nay được sát nhập vào hệ thống trường công lập.

Mặc dù Pháp lệnh mới về tôn giáo và tín ngưỡng “khuyến khích” các tổ chức tôn giáo tham gia vào các hoạt động từ thiện trong lĩnh vực giáo dục và y tế nhưng mức độ giám sát của Chính quyền đối với các hoạt động này rất khác nhau ở các địa phương khác nhau. Ở một số vùng đặc biệt là ở miền Nam, các linh mục và nữ tu sĩ Công giáo đã mở ra các nhà trẻ, các trại trẻ mồ côi, các trung tâm dạy nghề, các phòng khám và tham gia vào nhiều chương trình nhân đạo khác. Ở Thành phố Hồ Chí Minh và Huế, nhà thờ công giáo tham gia hỗ trợ trong việc xây dựng các trung tâm điều trị và bệnh viện cho bệnh nhân HIV/AIDS và tham gia tư vấn cho thanh niên về vấn đề này. Các nhóm Phật giáo cũng tham gia phòng chống HIV/AIDS và công tác từ thiện khác khắp cả nước. Địa phận thuộc quyền cai quản của tổng giám mục tại Thành phố Hồ Chí Minh đã điều hành một trạm y tế phòng chống HIV/AIDS tại trung tâm cai nghiện Trọng Điểm thay mặt chính quyền thành phố. Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh và nhà thờ Công giáo đã thảo luận về phương thức cấm chính thức các sáng kiến mới, ví dụ phòng khám cho bệnh nhân HIV/AIDS mặc dù chính quyền cho phép nhà thờ thực hiện ngầm các sáng kiến như vậy. Các hoạt động từ thiện của nhà thờ Công giáo bị chế nhiều hơn ở miền Bắc.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tham gia nhiều hoạt động nhân đạo khắp cả nước, trong đó có chương trình phòng chống ma túy. Giáo phái Hòa Hảo được công nhận chính thức cho biết họ đã tham gia nhiều hoạt động nhân đạo và dự án phát triển ở trong nước.

Lạm dụng tự do tôn giáo

Các trường hợp lạm dụng tôn giáo giảm dần trong khoảng thời gian bản báo cáo này đề cập. Tuy nhiên, nhiều người theo tôn giáo tiếp tục bị đàn áp hoặc gây khó khăn do hoạt động trái phép. Chính quyền địa phương đã gây sức ép đối với những người theo đạo Tin Lành ở miền Trung và Tây Bắc và các khu vực khác bằng cách bắt buộc chấm dứt các cuộc tụ họp tại nhà thờ, đóng cửa các nhà thờ tại gia và buộc các tín đồ phải từ bỏ tôn giáo của mình, nhưng thông thường không thành công. Ví dụ, tháng 6/2006, hai tín đồ Tin Lành ở Thanh Hóa đã bị cảnh sát đánh đập. Tuy nhiên, số lượng báo cáo đáng tin cậy về những trường hợp như vậy ít hơn so với những năm trước và dường như phần lớn phản ánh thành kiến cá nhân ở địa phương chứ không phải là chính sách chính thức. Các biện pháp hạn chế đối với lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Thống nhất vẫn còn được áp dụng, chủ yếu hạn chế quyền tự do đi lại, tự do tư tưởng và hội họp của họ. Có ít báo cáo đáng tin cậy hơn về việc các quan chức bắt giữ tùy tiện, đe dọa về thể xác và áp đảo tinh thần với các cá nhân ít nhất là vì tín ngưỡng và hành đạo của họ, đặc biệt ở khu vực dân tộc miền núi.

Tổ chức Giám sát Nhân quyền, một tổ chức phi chính phủ quốc tế đã cho biết lực lượng an ninh ở tỉnh Kon Tum đã cho phá nhà nguyện của mục sư Nguyễn Công Chính vào hồi tháng 1 và tháng 9 năm 2004. Linh mục Chính theo nhà nguyện của mục sư Quang. Được biết chính quyền đã lấy lý do ông Chính đã đứng tên giả để mua khu đất xây nhà thờ. Tuy nhiên, theo các nhà quan sát thì ông Chính còn mở ít nhất một nhà thờ khác cách đó không xa không có đăng ký mà không chịu sự đàn áp nào từ phía chính quyền. Ông Chính cũng khiếu nại rằng ông đã từ chối đưa ra chứng minh thư được yêu cầu xuất trình khi đăng ký sở hữu nhà hoặc tài sản.

Mục sư và lãnh đạo nhà thờ tại gia Nguyễn Hồng Quang bị bắt năm 2004 và kết án ba năm tù giam đã được phóng thích sau khi được ân xá tháng 9/2005. Năm tín đồ của ông bị kết án từ chín tháng đến hai năm tù giam. Mục sư Quang và các tín đồ của ông đã bị kết án sau sự kiện nổ ra tháng 3/2004 khi ông và một vài tín đồ đã chống lại và ẩu đả với hai người được cho là cảnh sát mặc thường phục đang theo dõi nơi ở của ông. Tuy nhiên, một số nhà quan sát đã cho rằng vụ bắt giữ mục sư Quang gắn liền với các hoạt động xã hội của ông. Cảnh sát ở Thành phố Hồ Chí Minh thường xuyên gây khó khăn đối với nhà thờ tại gia của mục sư Quang khi nhà thờ này được bà Lê Thị Phù Dung, vợ ông, điều hành trong thời gian mục sư Quang bị đi tù. Cảnh sát đã nhiều lần triệu tập bà Dung để thẩm vấn, cản trở các buổi hành lễ và tạm giam nhiều nhóm tín đồ. Tháng 5/2006, mục sư Quang và một số tín đồ đã bị giam khoảng 24 tiếng đồng hồ sau khi đụng độ với cảnh sát địa phương về việc xây dựng một nhà thờ tại gia của ông. Tuy nhiên, Chính phủ đã đưa ra một số bằng chứng cho rằng mục sư Quang đã cố tình làm ngơ các quy định về quy hoạch và yêu cầu tuân thủ các quy định quy hoạch của giới chức địa phương.

Mục sư Thân Văn Trường đã được phóng thích tháng 9/2005 sau khi bị chính quyền tỉnh Đồng Nai ép buộc đưa vào trại tâm thần do tham gia hoạt động tôn giáo và chính trị. Ông đã được thả với điều kiện ông ký vào một văn bản xác nhận bệnh tâm thần của mình, do đó khiến ông có thể lại bị đưa vào trại tâm thần nếu “tái phát bệnh”. Mục sư Trường tiếp tục bị giới chức địa phương theo dõi chặt chẽ. Có nhiều báo cáo đã được khẳng định rằng ông tiếp tục bị áp đảo tinh thần và các hoạt động tôn giáo của ông đã bị cấm ở tỉnh Đồng Nai và quê ông ở tỉnh Bắc Giang nơi ông đã tổ chức một nhà thờ nhỏ. Tháng 6/2004 các nhà ngoại giao nước ngoài đã được Chính phủ cho phép đến thăm nhà thờ ở Bắc Giang và điều tra các vụ giới chức địa phương gây sách nhiễu.

Tháng 5/2005, mục sư Nguyễn Văn Cầm đã cho biết chính quyền xã Đồng Lâm, huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình đã nhiều lần thuyết phục ông ký vào tài liệu nhằm chấm dứt hoạt động truyền giáo tại gia. Theo các báo cáo chưa chính thức, một nhà thờ thuộc hội giám lý ở xã Xuân Lãnh, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên và một nhà thờ Tin Lành Nazarene ở xã Phủ Lý, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai đã bị chính quyền đị phưong can thiệp do tổ chức các cuộc họp bất hợp pháp. Theo các chức sắc tôn giáo, một nhà thờ tại gia ở tỉnh Trà Vinh ở đồng bằng sông Cửu Long đã bị cấm tổ chức buổi lễ Phục sinh năm 2006. Kinh thánh và các tài liệu tôn giáo khác đã bị tịch thu. Tháng 12/2005, cảnh sát đã can thiệp vào các buổi lễ Giáng sinh ở một số nhà thờ tại tỉnh Cần Thơ, Long An và Vĩnh Long ở đồng bằng sông Cửu Long. Tháng 1/2006 ở tỉnh Kiên Giang, cảnh sát đã cấm một nhà thờ theo Hội Giám lý tổ chức các buổi tụ tập và tịch thu chứng minh thư của một mục sư tới thăm.

Tháng 8/2005, có nhiều báo cáo đáng tin cậy cho biết giới chức địa phương đã cố ép một nhà truyền giáo thuộc Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam từ bỏ tín ngưỡng và chấm dứt các hoạt động của đoàn mục sư của ông tại bản Hre ở tỉnh Quảng Ngãi. Được biết nhiều đối tượng chưa được xác minh rõ đã đốt nhà của ông để trả đũa. Cộng đồng Tin Lành tiếp tục bị gây khó khăn đến tận tháng 5/2006.

Trong thời gian báo cáo này đề cập tới, có ít báo cáo về các trường hợp lãnh đạo của các nhà thờ chưa được đăng ký ở Tây Bắc bị quấy rối hoặc bị tạm giam và bắt buộc phải từ bỏ tín ngưỡng hơn.

Nhiều nhà nguyện cũng đuợc cho phép hoạt động ở một số nơi tuy nhiên phải dưới tầm kiểm soát của Chính phủ. Một ví dụ điển hình vào tháng 2/2005, lực lượng biên phòng Chính phủ ở bản Gap Trung, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang theo báo cáo đã uy hiếp các tín đồ tại một nhà thờ Tin Lành và cấm không cho tổ chức các buổi truyền giáo diễn ra. Báo cáo cho biết, ít nhất 4 nhà nguyện ở xã Mường Nhà và Pú Nhi của tỉnh Điện Biên bị cấm gặp gỡ để tổ chức các buổi hành đạo.

Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật liên quan tới Pháp lệnh Tôn giáo và Tín ngưỡng, Nghị định hướng dẫn triển khai Pháp lệnh Tôn giáo và Tín ngưỡng và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đạo Tin Lành vẫn còn chậm, và đến khi kết thúc thời gian bản báo cáo này được tường trình, nhiều lãnh đạo của những nơi hành đạo cho biết cảnh sát và các cơ quan chức năng khác đã không thực hiện đầy đủ những văn bản quy phạm pháp luật đó. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng ở trung ương và cấp tỉnh đã tổ chức một số buổi tập huấn để đào tạo cho giới chức địa phương về khung pháp lý mới. Việc triển khai khung pháp lý mới diễn ra rất chậm tại các tỉnh miền Bắc và Tây Bắc, đặc biệt liên quan tới các tín đồ Tin Lành. Các quan chức địa phương thường lấy cớ pháp luật để gây khó khăn cho các tín đồ và lãnh đạo. Việc gây khó khăn như vậy đã giảm đi trong thời gian báo cáo này đề cập tới, nhất là sau tháng 1/2006.

Tín đồ Tin Lành tại huyện Bảo Thăng, tỉnh Lào Cai không được phép tổ chức lễ Giáng sinh từ năm 1990. Năm 2005, họ bị yêu cầu xin phép chính quyền địa phương để tổ chức các buổi lễ Giáng sinh, nhưng ngay trước khi lễ hội diễn ra, chính quyền địa phương đã ra lệnh cho giáo đoàn hạ xuống tất cả mọi trang trí. Cũng trong thời gian đó, hai người trợ tế tại huyện Bát Xát, Lào Cai tới Hà Nội đã bị phạt nặng tương tự như hai trợ tế khác từ thị trấn Phung Phong Hai trong cùng huyện này do họ đã nhận đơn đăng ký từ Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Bắc. Hai người này bị bắt sau khi họ từ Hà Nội trở về và bị giam sáu ngày.

Các báo cáo đáng tin cậy cho biết giới chức huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai đã khước từ chuyển đơn đăng ký của giáo đoàn địa phương tới cấp trên. Họ cũng đã khuyến khích những người thân không theo đạo Tin Lành gây khó khăn cho những tín đồ Tin Lành cho đến khi họ từ bỏ tôn giáo của mình. Có trường hợp cảnh sát đã khước từ can thiệp khi anh trai của một nữ tín đồ Tin Lành liên tục đánh chồng của cô, với hàm ý rằng “vì cô là tín đồ Tin Lành” nên sẽ không có vấn đề gì khi anh trai cô đánh chồng của cô đến chừng nào cả hai vợ chồng phải từ bỏ tín ngưỡng của mình. Một người trợ tế nhà nguyện ở huyện Muôn Nghê ở Điện Biên đã bị bắt tháng 11/2005 sau khi từ Hà Nội trở về và mang theo các tài liệu của Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Bắc. Lãnh đạo lực lượng biên phòng (BFP) đã biện minh cho việc bắt giữ với lý do “ông ta không được đi xa như vậy để lấy tài liệu của Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Bắc” ngay cả khi ông ta đã xin phép từ đầu. Kể từ sự kiện đó, một lực lượng đặc biệt của biên phòng đã sống trong những thôn/bản theo đạo Tin Lành để theo dõi hoạt động của người dân địa phương và tịch thu tất cả kinh thánh bằng tiếng H’mong khi phát hiện. Tháng 8/2005, chính quyền một huyện ở tỉnh Phú Yên đã bác bỏ đơn xin đăng ký của một giáo đoàn Báptít, và cho rằng nhà thờ tại gia mang tính chất “Việt Nam gốc Mỹ” và không đáp ứng các yêu cầu của pháp luật. Chưa có thông tin rõ ràng về việc liệu quyết định đó có bị khiếu nại hay không.

Tháng 1/2006, chính quyền huyện Xin Man ở Hà Giang đã thông báo một giáo đoàn chưa đăng ký rằng “nếu từ năm tín đồ cùng tụ tập với nhau thì chúng tôi sẽ truy tố”. Giáo đoàn đã nộp đơn đăng ký nhưng chưa nhận được bất kỳ câu trả lời chính thức nào. Tháng 3/2006 ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, chính quyền địa phương đã phạt một mục sư nhà nguyện 32 đô-la (tương đương 500.000 đồng) - hơn một nửa tháng lương của ông - vì đã đi tới Hà Nội để nhận đơn đăng ký từ Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Bắc. Ngoài ra, các trợ tế của nhà thờ cũng đã bị phạt sáu đô-la (100.000 đồng) mỗi người vì là “tín đồ Tin Lành” và vì đã ký tên vào hồ sơ xin đăng ký của giáo đoàn.

Một số báo cáo từ nhiều nơi ở Tây Bắc cho biết các giới chức địa phương đã thông báo với các tín đồ rằng các luật mới không áp dụng với Tây Bắc. Mặc dù 535 nhà nguyện ở Tây Bắc đã nộp đơn xin đăng ký, song theo Chính phủ, mới chỉ có sáu nhà nguyện được đăng ký đến cuối khoảng thời gian báo cáo này đề cập tới.

Mặc dù có những tiến bộ rõ rệt ở Tây Nguyên, song ít nhất 1/3 giáo đoàn thuộc Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam ở Đắc Lắc đã bị hạn chế hoạt động nghiệm ngặt. Những điều kiện như vậy dường như còn ngặt nghèo hơn ở huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum nơi giới chức cấp cao của huyện đã lập luận vào đầu năm 2006 rằng không có “tôn giáo” nào ở khu vực này. Có một số báo cáo nêu rằng ở nhiều nơi, lãnh đạo công an địa phương đã bị khiển trách vì đã gây khó dễ cho các nhà nguyện trái với quy định của Chỉ thị về Đạo Tin Lành của Thủ tướng Chính phủ. Trong một số trường hợp ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung, giới chức địa phương đã tăng cường gây sức ép với các giáo đoàn nộp đơn đăng ký.

Việc đàn áp đạo Tin Lành ở Cao nguyên Trung Bộ trở nên phức tạp do sự hiện diện của nhóm nhỏ ly khai "Đề-ga". Nhóm này yêu cầu có một quê hương tự trị độc lập cho người bản địa trong vùng, đặc biệt ở các tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc. Đề-ga có liên hệ với các nhóm chính trị ở Mỹ. Mối quan hệ giữa phong trào Đề-ga và tín đồ Tin Lành thuộc Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam rất căng thẳng ở một số nơi ở Tây Nguyên. Nhiều tín đồ Đề-ga đã đe dọa các mục sự Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam sẽ không được phép hoạt động trong “nhà nước Đề-ga” nếu họ không từ bỏ Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam. Nhiều mục sư Tin Lành đã cáo buộc phong trào Đề-ga đang lợi dụng tôn giáo để phục vụ mục tiêu chính trị. Chúng tôi không thể ước tính được mức độ ủng hộ ở Tây Nguyên cho phong trào Đề-ga, song đây vẫn là một vấn đề đáng quan ngại đối với cả chính quyền trung ương và các tỉnh.

Ngày 10/4/2004, vài nghìn người dân tộc thiểu số đã phản đối các nhà chức trách tại một số huyện ở các tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai và Đắc Nông thuộc Tây Nguyên. Theo các báo cáo, các nhà chức trách đã đàn áp mạnh mẽ những người phản đối và có đánh đập hay giết một số người phản đối. Theo các báo cáo, một số người phản đối cũng đã có hành động bạo lực. Một số cá nhân ở nước ngoài ủng hộ phong trào Đề-ga cho rằng việc hạn chế tự do tôn giáo là yếu tố chính dẫn đến hành động phản đối. Chính phủ,cũng như nhiều nhà lãnh đạo chính thức và không chính thức thì cho rằng tranh chấp đất đai và các vấn đề kinh tế xã hội khác là nguyên nhân dẫn đến hành động phản đối. Kể từ tháng 4/2004, không có các cuộc biểu tình mới trên quy mô lớn ở Tây Nguyên và Chính phủ đã tiến hành thêm một số biện pháp để cải thiện tình hình kinh tế-xã hội và tự do tôn giáo cho cộng đồng người dân tộc thiểu số.

Rất khó có thể xác định chính xác số người bị tạm giam và số người bị tù vì tôn giáo do hệ thống pháp luật hầu như không có sự minh bạch, và rất khó có thể khẳng định những người này bị bắt, giam giữ, xét xử hay phóng thích khi nào. Chính phủ cho rằng họ không giam giữ bất kỳ tù nhân tôn giáo nào. Những cá nhân đó thường bị kết án vi phạm pháp luật an ninh quốc gia hoặc luật hình sự. Một số nhà quan sát ước tính số lượng tù nhân tôn giáo rất cao, nhìn chung là do các cá nhân bị bắt có tham gia vào các nhóm Đề-ga hoặc các vụ đụng độ giữa cảnh sát và những người biểu tình là người dân tộc thiểu số vào tháng 2/2001 và 4/2004.

Vào tháng 8/2005, Võ Văn Thanh Liêm, Nguyễn Phi Long, Nguyễn Văn Điền, Mai Thị Dung, Võ Văn Bửu, Trần Thanh Phong, Nguyễn Thị Hà, Mai Văn Thung và Tô Văn Mẫn đã bị bắt trong các vụ vây bắt đồng loạt ở đồng bằng sông Cửu Long. Võ Văn Bửu đã cố tự vẫn nhưng vẫn còn sống. Đồng môn của ông là Tân Văn Út đã quyên sinh và chết trong vụ tấn công của cảnh sát. Cảnh sát đã cáo buộc hàng chục cá nhân đóng vai trò chủ chốt trong vụ biểu tình và đụng độ với cảnh sát diễn ra vào tháng 6/2005 sau sự kiện tôn giáo do HHCBC tổ chức. Tại các phiên xét xử ở đồng bằng sông Cửu Long, bảy trong số chín người này đã bị kết án từ bốn đến bảy năm tù. Dường như Nguyễn Phi Long và Mai Văn Thung không bị xét xử và kết án.

Ma Văn Bảy, một lãnh đạo nhà thờ Tin Lành, đã bị kết án sáu năm tù vào tháng 4/2004. Ông đã bị kết tội ăn cắp sau khi tổ chức quyên góp tự nguyện cho nhà thờ.

Tháng 2/2005, cảnh sát tại tỉnh An Giang đã bắt giam các tín đồ Hòa Hảo Trần Văn Hoàng và Trần Văn Thanh do đã truyền bá những băng cát-xét và DVD có ghi các bài giảng tôn giáo. Ngày 27/4, các nhà chức trách kết án Hoàng chín tháng tù và Thanh sáu tháng tù. Mặc dù hai người này bị kết tội vì truyền bá những băng đĩa bất hợp pháp, ở Việt Nam số trường hợp mà quy định này được áp dụng là rất hiếm, vì vậy các nhà quan sát cho rằng nguyên nhân khiến họ bị kết tội là việc họ đã gia nhập Giáo hội Phật giáo Trung ương Hòa Hảo mà chính quyền không công nhận. Theo báo cáo, hai người này đã được thả khi hết hạn tù.

Vào tháng 8 năm 2004, các nhà chức trách đã bắt Hồng Thiên Hạnh, lãnh đạo của giáo phái nhỏ Tổ Đình Tân Chiếu Minh Cao Đài ở tỉnh Tiền Giang. Chính phủ tuyên bố rằng Hanh đã tham gia những hoạt động tôn giáo bất hợp pháp, in và truyền bá bất hợp pháp những thông tin tôn giáo và lừa gạt tín đồ. Một số tín đồ Cao Đài độc lập khẳng định những lời cáo buộc của Chính phủ đối với Hạnh.

Ít nhất có 15 người khác nữa, trong đó có Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ thuộc UBCV và mục sư Công giáo Phạm Văn Lợi, bị giam giữ trong điều kiện giống như quản thúc tại gia vì những lý do liên quan đến việc bày tỏ tín ngưỡng tôn giáo hay cố gắng thành lập các tổ chức tôn giáo không được cho phép, mặc dù không hề có bất cứ cáo buộc chính thức nào chống lại họ. Một số thành viên khác bao gồm lãnh đạo và tín đồ của UBCV, Cao Đài, Thiên chúa, Hòa Hảo và Tin Lành đã bị cản trở phong trào của mình hoặc bị cảnh sát giám sát và theo dõi.

Cưỡng bức cải giáo

Nghị định hướng dẫn thực hiện Sắc lệnh về Tôn giáo và Tín ngưỡng quy định “Không được ép buộc công dân theo một tôn giáo hay từ bỏ tín ngưỡng của mình”. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin Lành cũng khẳng định một cách tương tự. Trong khi chính phủ nói rằng việc cưỡng bức theo tôn giáo hay từ bỏ tín ngưỡng luôn luôn là không hợp pháp, những văn bản nói trên là những tài liệu đầu tiên trong đó điều này được nêu rõ. Sau khi nghị định hướng dẫn thực hiện được ban hành, các báo cáo về tình hình tôn giáo ở Tây Nguyên và vùng Tây Bắc cho thấy rằng việc cưỡng bức từ bỏ tín ngưỡng đã giảm bớt. Tuy nhiên vẫn có báo cáo về một số vụ việc diễn ra trong giai đoạn báo cáo này được tường trình.

Nhiều lần, theo các báo cáo, cán bộ của một số làng vùng Tây Bắc cố gắng thuyết phục hoặc ép người H’mông theo đạo Tin Lành từ bỏ tín ngưỡng của họ. Chính quyền địa phương còn khuyến khích các già làng, trưởng bản gây áp lực đối với gia đình, con cháu họ từ bỏ Công giáo và quay về với những nghi lễ truyền thống. Chẳng hạn, vào tháng 7 và tháng 8 năm 2004, theo các báo cáo, nhà chức trách bắt giam không kết tội hơn 100 tín đồ Tin Lành H’mông, chọn ở mỗi gia đình một người, tại ít nhất 5 xã khác nhau ở huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Nhà chức trách đã tìm cách buộc những người bị bắt từ bỏ đạo Tin Lành và chỉ thả họ sau khi họ hứa làm như vậy. Trong thời gian báo cáo này đề cập tới, không có báo cáo đáng tin cậy nào về những nỗ lực ép buộc từ bỏ đạo như vậy ở Sa Pa mặc dù một số tín đồ cho rằng chính quyền địa phương đã cố rút lại quyền sử dụng đất của những tín đồ Tin Lành khước từ bỏ đạo. Bốn tín đồ Tin Lành ở bản Gap Trung, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang, đã bị lực lượng biên phòng ép buộc ký vào các văn bản để từ tín ngưỡng của mình vào tháng 4/2005 nhưng không thành công. Tương tự như vậy, tháng 5/2006, Chính quyền xã Cha Cang, huyện Mường Lay, tỉnh Điện Biên đã ép các tín đồ của một số nhà thờ tại gia đạo Tin Lành làm bàn thờ kiểu truyền thống trong nhà của họ, và phải ký các văn bản để bỏ đạo Tin Lành.

Không có báo cáo nào về việc ép buộc cải giáo của số ít công dân Mỹ bị bắt cóc hay bị đưa ra khỏi nước Mỹ một cách bất hợp pháp, hoặc không cho phép những công dân này quay trở lại Mỹ.

Những cải thiện và diễn biến tích cực trong lĩnh vực tôn trọng tự do tôn giáo

Tình hình tôn trọng tự do tôn giáo đã được cải thiện trong giai đoạn báo cáo này được tường trình. Chính phủ tiếp tục nới lỏng những hạn chế đối với tín đồ đạo Phật, Công giáo, đạo Tin Lành, Hòa Hảo và Cao Đài so với những năm trước. Nhiều thay đổi diễn ra thông qua việc sửa đổi một cách đáng kể khuôn khổ pháp lý về việc quản lý tôn giáo và giảm bớt sức ép của chính phủ đối với các nhóm Tin Lành. Nhưng vào cuối khoảng thời gian báo cáo này đề cập, việc thực hiện cải cách pháp lý vẫn chỉ ở giai đoạn đầu. Tuy nhiên, nhiều nhóm tôn giáo được công nhận và chưa được công nhận, đặc biệt những nhóm Tin Lành ở Tây Nguyên và Tây Bắc cho biết họ tin rằng tình hình đối với các tín đồ của họ đã tiếp tục được cải thiện.

Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin Lành cũng đã hướng dẫn các quan chức ở Tây Nguyên tiếp tục công nhận những tăng hội mới của Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam. Trong thời gian báo cáo này đề cập tới, Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam và các nhà nguyện cho biết tình hình đã được cải thiện ở các tỉnh Tây Nguyên như Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum và Đắc Nông. Ít nhất 15 giáo đoàn Tin Lành mới thuộc Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam ở Tây Nguyên đã được công nhận trong thời gian báo cáo này đề cập tới.

Hầu hết các giáo đoàn Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam và những nơi tụ họp ở Tây Nguyên có thể đăng ký hoạt động với giới chức địa phương và được phép hoạt động mà không bị gây khó khăn. Ví dụ, hàng trăm nơi cầu nguyện đã được phép hoạt động ở Gia Lai, hợp pháp hóa hoạt động của 75.000 tín đồ ở tỉnh này. Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam cũng mở một số nhà thờ mới ở Gia Lai, Đắc Lắc và Đắc Nông. Ngoài ra, Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam tiếp tục tổ chức các lớp học kinh thánh ở những tỉnh này để tập huấn cho một số nhà thuyết giáo của nhà thờ tại gia trong vùng, cho phép họ được chính thức công nhận là mục sư. Việc những mục sư mới được thụ chức là một bước quan trọng trong quá trình công nhận những nhà thờ mới của Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam. Trong thời gian báo cáo này đề cập tới, tỉnh Gia Lai đã cho phép Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam mở trường dạy thánh kinh cho những nhà thuyết giáo chưa được công nhận. Điều đó có khả năng sẽ gia tăng nhanh chóng hơn số lượng các mục sư mới trong tỉnh và do đó sẽ mở đường cho việc đăng ký nhiều hơn. Chính quyền Gia Lai cũng tạo điều kiện xây dựng một nhà thờ Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam mới ở huyện Chu Sê. Tháng 5/2006, 266 lãnh đạo đã tham dự một cuộc họp tại Huế cho Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức để giải thích quy trình đăng ký và có thêm 300 lãnh đạo nữa đã tham gia hội thảo tương tự ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Khác với những năm trước, các quan chức ở hầu hết các tỉnh miền Bắc đã thừa nhận sự hiện diện của những tín đồ Tin Lành và cho biết theo các văn bản hướng dẫn của Chính phủ họ đã có kế hoạch phê duyệt đơn đăng ký của một số giáo đoàn. Các đầu mối liên lạc của Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Bắc ở Tây Bắc khẳng định hầu hết các giáo đoàn chưa đăng ký nhìn chung được phép cầu nguyện tại nhà của họ và gặp gỡ công khai ban ngày khi đã thông báo đầy đủ cho chính quyền địa phương. Nhìn chung, giới chức của tỉnh cho biết các tín đồ Tin Lành hiện nay có thể được phép tổ chức và tụ tập thành nhóm nhỏ mà không cần phải đăng ký. Ví dụ, ở tỉnh Quảng Ninh, các quan chức đã cho phép tín đồ Tin Lành địa phương được tổ chức các hoạt động của họ với điều kiện họ không tụ tập thành nhóm lớn và cho biết nếu giáo đoàn địa phương tiếp tục “hành xử như vậy” trong một năm nữa thì chính quyền tỉnh sẽ cấp phép cho họ đăng ký.

Cảnh sát và các quan chức Chính phủ khác ở Tây Bắc đã phối hợp với lãnh đạo các nhà nguyện ở một số nơi để thông báo cho họ về những quy định mới, đồng thời theo Ban Tôn giáo Chính phủ, sáu nhà nguyện thuộc Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Bắc trước đây chưa được đăng ký - hai nhà thờ ở Lai Châu và bốn nhà thờ ở tỉnh Lào Cai - đã chính thức được đăng ký. Ban Tôn giáo Chính phủ đã tiến hành tổ chức tập huấn ở miền Bắc để hướng dẫn cho quan chức cấp tỉnh và huyện về những quy định mới về tôn giáo để họ có thể “thực hiện những chính sách theo đúng quy định”. Hơn 300 giới chức địa phương đã tham dự các buổi tập huấn này tại Hà Nội và Huế. Ban Tôn giáo Chính phủ cũng tiến hành các hội thảo tập huấn cho các chức sắc tôn giáo. Tháng 4/2006, 247 giáo sĩ thuộc nhiều nhóm tôn giáo khác nhau đã tham dự một hội thảo tại Hà Nội do Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức để giới thiệu quy trình đăng ký.

Nhiều mục sư thuộc các giáo phái của Tin Lành gồm Cơ đốc Phục lâm, Menno, Báptít, và Triệu Thần Hội không muốn gia nhập Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam hoặc Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Bắc vì có sự khác biệt về học thuyết. Nhiều nơi ở Việt Nam, đặc biệt khu vực thành thị, các giáo phái này và nhiều nhóm Tin Lành không được công nhận khác cho biết họ có thể hành đạo công khai và giới chức địa phương biết điều đó. Mặc dù có những ngoại lệ, chẳng hạn nhà thờ dòng Menno do Mục sư Lê Hồng Quang chủ trì ở Thành phố Hồ Chí Minh, song mức độ gây khó khăn đối với những nhà thờ tại gia thuộc các tăng hội của không thuộc Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Nam và Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Bắc tiếp tục giảm đi khắp cả nước. Chính phủ đã thảo luận về việc đăng ký và công nhận với lãnh đạo của ít nhất bốn giáo phái Tin Lành và Nhân chứng của Giehôva. Đến cuối khoảng thời gian báo cáo này đề cập tới, mỗi tăng đoàn thuộc giáo phái Menno, Cơ đốc Phục Lâm và Báptít Ân Điển đã được đăng ký tại Thành phố Hồ Chí Minh. Việc đăng ký hoạt động trên quy mô toàn quốc của các giáo phái này cũng như Giáo hội Thế giới Thống nhất tại Đà Nẵng chưa được giải quyết từ tháng 9/2005.

Việc tham dự các buổi phụng sự tôn giáo tiếp tục gia tăng trong giai đoạn báo cáo này đề cập. Số nhà sư của đạo Phật và số linh mục Công giáo cũng tiếp tục gia tăng. Việc hạn chế các buổi hành lễ đối với tín đồ Tin Lành tiếp tục giảm đi. Tín đồ Công giáo ở Việt Nam được phép tổ chức lễ Giáng sinh và Phục sinh với những khó khăn tương đối lớn. Một số tín đồ Tin Lành ở Tây Nguyên và ở miền Bắc gặp khó khăn trong việc tổ chức các buổi lễ vào dịp Giáng sinh, nhưng cho biết họ được phép lễ Phục sinh không mấy khó khăn.

Nhà thờ Công giáo cho biết chính phủ tiếp tục nới lỏng kiểm soát đối với việc thụ phong tăng lữ của nhà thờ, và trong thời gian báo cáo này đề cập tới, nhiều mục sư mới đã được thụ phong, bao gồm 57 mục sư được thụ phong trong một buổi lễ do một Hồng y Giáo chủ từ Vatican tới thăm và tổ chức tháng 11/2005. Hầu hết những mục sư mới đều nhận nhiệm vụ mới tại các tỉnh vào cuối thời gian báo cáo này đề cập tới. Tất cả các vị trí giám mục đều đã được bố trí, đến cuối năm 2005, Chính phủ đã tạo điều kiện giải quyết một đề nghị xây dựng một giáo khu mới ở miền Nam và tôn phong một đức giám mục mới. Mối liên hệ giữa Tòa thánh Vatican và cộng đồng Công giáo trong nước vẫn diễn ra thường xuyên, bao gồm vai trò lãnh đạo của Tòa thánh, các hoạt động tổ chức, và triển vọng thiết lập quan hệ ngoại giao. Các cuộc đàm phán về việc lập quan hệ ngoại giao giữa Tòa thánh Vatican và Chính phủ tiếp tục tăng lên về mức độ trong thời gian báo cáo này đề cập tới.

Việc gây khó dễ với nhà thờ dòng Menno của Mục sư Nguyễn Hồng Quang ở Thành phố Hồ Chí Minh đã lắng xuống sau khi mục sư được ân xá và phóng thích vào tháng 9/2005. Cuối tháng 5/2006, Mục sư Quang đã được mời tới dự cuộc hội thảo đầu tiên của Chính phủ với các tổ chức nhà thờ tại gia về khung pháp lý mới về tôn giáo.

Hội thánh Liên hữu Tân sinh phục vụ nhu cầu của người nước ngoài và người Việt Nam đã bị cấm tổ chức tụ tập tại các khách sạn ở Thành phố Hồ Chí Minh trong tháng 8/2005 sau khi Hội thánh mở các buổi lễ dành riêng cho người địa phương trái với quy định của luật. Kể từ đó tới nay, người nước ngoài tham gia Hội thánh có thể tụ tập thành từng nhóm nhỏ tại nhà. Tháng 4/2006, Hội thánh lần đầu tiên đã có thể tổ chức buổi lễ cầu nguyện quy mô lớn cho người nước ngoài ở sân của một khách sạn ở Thành phố Hồ Chí Minh cho người nước ngoài kể từ tháng 8/2005. Hội thánh vẫn tiếp tục thảo luận với các quan chức thành phố và trung ương về việc tìm giải pháp lâu dài về mặt pháp lý cho quy chế của Hội thánh.

Thành viên của Hiệp hội Đạo hồi Việt Nam tiếp tục được hành đạo, bao gồm đọc kinh hàng ngày, ăn chay trong tháng Ramadan và giảng dạy kinh Cô-ran. Hàng năm, một số tín đồ Hồi giáo hành hương về thánh địa Mecca, và hầu hết đều được bảo trợ từ nước ngoài. Trong khoảng thời gian báo cáo này đề cập, một số sinh viên Hồi giáo đã được du học theo lời mời của một số chính phủ nước ngoài. Cộng đồng Hồi giáo cho biết không có khó khăn hay vấn đề gì với Chính phủ.

Hòa thượng Thích Nhất Hạnh ở Pháp được phép về nước vào tháng 1/2005 trong chuyến thăm 10 ngày đầu tiên sau 39 năm lưu vong. Hòa thượng Thích Nhất Hạnh đã đi nhiều nơi ở trong nước, gặp gỡ nhiều nhóm ủng hộ đạo Phật và nói chuyện với các học giả và lãnh đạo chính trị, trong đó có Thủ tướng Phan Văn Khải. Nhiều nhận xét của Hòa thượng Thích Nhật Hạnh đã chỉ trích tình hình đối với các tín đồ đạo Phật và ông đã kêu gọi chấm dứt tình trạng các hòa thượng kiêm nhiệm các chức vụ nhà nước và hòa giải với các nhóm Phật giáo. Hòa thượng Thích Nhật Hạnh đã gặp gỡ lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở Huế chứ không phải ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong khoảng thời gian báo cáo này đề cập, một số nhóm tôn giáo cũng đã được phép tổ chức các buổi lễ lớn, như lễ hội La Vang của Công giáo, hành hương về đất tổ Vua Hùng, ngày thành lập đạo Hòa Hảo và kỷ niệm ngày mất của người sáng lập. Ước tính mỗi lễ hội thu hút sự tham gia của hàng trăm ngàn người. Các tín đồ Tin Lành tại gia đã có thể tụ tập thành nhóm lớn trong các buổi hành lễ đặc biệt tại Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều nơi khác. Tháng 4/2006, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức cho phép tổ chức lễ phục sinh đầu tiên trên quy mô lớn của cộng đồng Báptít kể từ năm 1975 tới nay. Các lãnh đạo nhà nguyện và quan chức Chính phủ đã tham dự buổi lễ này.

Một số tù nhân tôn giáo đã được ân xá hoặc phóng thích trong thời gian báo cáo này đề cập tới. Ví dụ, Cha Nguyễn Thiên Phùng, một thành viên của hội Order of the Mother Co-Redemptrix, Trần Văn Hoàng, Trần Văn Thanh và Thân Văn Trường đã được ân xá vào ngày 2/9/2005.

Các nhóm Công giáo và Tin Lành cho biết Chính phủ tiếp tục trả lại một số bất động sản thuộc sở hữu của họ trước đây mặc dù tiến độ xử lý đơn đòi đất nhìn chung còn rất chậm. Ví dụ, tháng 1/2006, giáo đoàn Tổng hội Hội thánh Tin Lành miền Bắc (một trong 15 giáo đoàn đăng ký hợp pháp ở miền Bắc từ giữa những năm 1960) đã được cấp phép sử dụng một bất động sản của nhà thờ ở Thanh Hóa đã bị bỏ không trong nhiều thập niên. Giáo đoàn đã được tu sửa nhà thờ và xây nhà cho mục sư của họ.

Chính phủ tiếp tục tuyên truyền chính sách mới về khoan dung tôn giáo thông qua các cơ quan nhà nước. Ví dụ, tháng 5/2006, Ban Tôn giáo Chính phủ đã tập huấn cho hơn 600 cán bộ tuyên truyền của các tỉnh miền núi Tây Bắc để phổ biến thông tin về tôn giáo cho người dân nhằm giảm thiểu tình trạng căng thẳng xã hội giữa những tín đồ theo tín ngưỡng truyền thống của người dân tộc thiểu số với những người chuyển sang đạo Tin Lành.

Nói tóm lại, trong thời gian được báo cáo này tường trình, Chính phủ tiếp tục giải quyết nhiều quan ngại về tự do tôn giáo do Hoa Kỳ và các quốc gia khác nêu ra. Các biện pháp áp dụng không đồng bộ ở địa phương dường như là khó khăn lớn nhất đặt ra với Chính phủ trong việc thực hiện những quy định mới về tôn giáo, mặc dù Ban Tôn giáo Chính phủ đã có một số biện pháp nâng cao hiểu biết pháp luật của giới chức địa phương về việc đăng ký đạo Tin Lành và các chính sách mới khác.

Phần III. Phân biệt đối xử và kỳ thị trong xã hội

Nói chung, có các quan hệ hữu hảo giữa các cộng đồng tôn giáo khác nhau mà không có những trường hợp phân biệt đối xử xã hội hoặc bạo lực vì lý do tôn giáo trong thời kỳ báo cáo này được tường trình. Ở Thành phố Hồ Chí Minh và Huế, có một vài cuộc đối thoại về Công giáo giữa những nhà lãnh đạo của các cộng đồng tôn giáo khác nhau. Những người Phật giáo, Hòa Hảo và Cao Đài được biết là đôi khi cũng hợp tác về một vài đề án xã hội và từ thiện.

Phần IV. Chính sách của Chính phủ Mỹ
 
Tháng 9/2004, Ngoại trưởng Hoa Kỳ lần đầu tiên đã liệt kê Việt Nam là “một nước cần đặc biệt quan tâm” (CPC) vì đã có những vi phạm đặc biệt về tự do tôn giáo. Sau đó, Đại sứ lưu động phụ trách về Tự do Tôn giáo Quốc tế cùng với phái bộ Hoa Kỳ tại Việt Nam đã tiến hành thảo luận với Chính phủ thúc giục phải có những cải thiện về tự do tôn giáo. Các quan chức cao cấp của Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với nhau, trao đổi thư từ vào tháng 5/2005 và tập trung vào những vấn đề sau: thực hiện đầy đủ các văn bản luật mới về hoạt động tôn giáo; hướng dẫn giới chức địa phương thực hiện nghiêm túc và đầy đủ văn bản pháp luật mới và đảm bảo việc tuân thủ các quy định pháp luật; tạo điều kiện cho các giáo đoàn có thể mở cửa các cơ sở hành đạo; quan tâm đặc biệt tới các tù nhân và các trường hợp đáng quan tâm do Hoa Kỳ nêu ra trong quá trình ân xá cho các tù nhân.

Ngày 21/6/2005, Tổng thống Hoa Kỳ và Thủ tướng Việt Nam đã thảo luận về quy chế tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Tháng 11/2005, Ngoại trưởng Hoa Kỳ đã gia hạn quy chế CPC của Việt Nam nhưng ghi nhận những tiến bộ đáng kể trong tự do tôn giáo trong năm qua.

Tháng 2/2006, Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách dân chủ, nhân quyền và lao động, và đại sứ lưu động phụ trách tự do tôn giáo quốc tế đã tới thăm Hà Nội để nối lại Đối thoại Nhân quyền Việt Nam-Hoa Kỳ.

Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội và Tổng lãnh sự Mỹ tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tích cực và thường xuyên nêu những quan tâm của Mỹ về tự do tôn giáo với nhiều nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam và các quan chức chính phủ, kể cả những nhà lãnh đạo Bộ Ngoại giao, Ủy ban Tôn giáo Chính phủ, Bộ Công an và các cơ quan khác tại Hà Nội, Thành phố Hồ chí Minh và các tỉnh. Cơ quan đại diện ngoại giao của Hoa Kỳ cũng duy trì liên hệ thường xuyên với các nhà lãnh đạo tôn giáo và những người bất đồng chính kiến.

Đại sứ Lưu động phụ trách về Tự do tôn giáo Quốc tế và các viên chức đã đến nhiều vùng tại Việt Nam trong sáu dịp vào giữa những năm 2003 và 2006 để gặp gỡ những nhà lãnh đạo tôn giáo và chính quyền địa phương. Trong một chuyến thăm kéo dài đến Hà Nội vào tháng 3/2005 bên lề Đối thoại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ, Đại sứ lưu động phụ trách về Tự do Tôn giáo Quốc tế cùng với các quan chức trong cơ quan đại diện ngoại giao Hoa Kỳ tại Việt Nam đã gặp các quan chức Chính phủ cao cấp của bốn bộ và tiến hành thảo luận nhiều vấn đề khác nhau liên quan tới tự do tôn giáo.

Đại sứ Mỹ, Tổng Lãnh sự Mỹ tại Thành phố Hồ Chí Minh và các quan chức khác tại tòa Đại sứ và Lãnh sự quán đã nêu các vấn đề tự do tôn giáo với các bộ trưởng cao cấp của Chính phủ, bao gồm Thủ tướng, hai Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, các quan chức cao cấp khác của chính phủ, Trưởng Ban Tôn giáo, Thứ trưởng Ngoại giao, Thứ trưởng Bộ Công an, các quan chức thuộc Vụ Đối ngoại của Bộ Ngoại giao tại Thành phố Hồ Chí Minh, các chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh khắp cả nước, và các quan chức khác, đặc biệt ở Tây Nguyên và Tây Bắc. Các quan chức tại tòa Đại sứ và Lãnh sự Mỹ duy trì liên lạc thường xuyên với các quan chức chủ chốt của các cơ quan Chính phủ để đảm bảo tôn trọng nhân quyền. Các quan chức tại Đại sứ quán và Tổng Lãnh sự quán Mỹ đã liên tục thông báo với các quan chức Chính phủ Việt Nam rằng thiếu tiến bộ trong tự do tôn giáo và nhân quyền là một trở ngại lớn đối với việc cải thiện quan hệ song phương.

Ngài Đại sứ và các quan chức đoàn ngoại giao Hoa Kỳ đã lưu ý việc thừa nhận công khai hơn các nhóm tôn giáo, kể cả các thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất các Hội thánh tin lành tại gia và các giáo phái Hòa Hảo và Cao Đài không theo nhà thờ chính thống. Họ đã yêu cầu tự do hơn cho các nhóm tôn giáo đã được thừa nhận. Ngài Đại sứ và các quan chức Hội Truyền giáo khác đã nhiều lần ủng hộ việc chấm dứt các biện pháp ngăn cản đối với Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ và một số người khác. Ngài Đại sứ còn yêu cầu chính phủ điều tra những hành vi được coi là đối xử tàn tệ với các tín đồ tôn giáo và trừng phạt bất cứ quan chức nào có liên đới. Họ cùng với Ngài Đại sứ lưu động về Tự do Tôn giáo và Phó Trợ lý Ngoại trưởng về Dân chủ Nhân quyền và Lao động tiếp tục yêu cầu ngừng việc cưỡng bức các tín đồ và trừng phạt các quan chức có liên quan, và đề nghị đăng ký và mở cửa lại các hội thánh tại gia đã bị đóng cửa. 

Đại diện của Đại sứ quán và Tổng Lãnh sự quán thường xuyên tiếp xúc với các lãnh đạo của các cộng đồng tôn giáo chính, bao gồm Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo và Đạo Hồi. Trong tháng 11/2004, Ngài Đại sứ đã gặp giáo trưởng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Thích Huyền Quang, và trong tháng 12, ngài Đại sứ đã gặp thượng tọa Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Thích Quảng Độ. Các quan chức Tổng Lãnh sự quán đã duy trì tiếp xúc thường xuyên với hai vị này và các thượng tọa Phật giáo khác trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Các quan chức Đại sứ quán và Tổng Lãnh sự quán Mỹ đã gặp Hồng y Giáo chủ tại Thành phố Hồ Chí Minh, các tổng giám mục công giáo ở Huế và Hà Nội và các giám mục ở Gia Lai, Kontum, Cần Thơ, Lạng Sơn, Buôn Ma Thuột và Hải Phòng cũng như các thành viên khác ở Hội nghị Giám mục. Các quan chức Sứ quán và Tổng lãnh sự cũng nhiều lần gặp gỡ với các lãnh đạo nhà thờ Thánh Tin Lành và các lãnh đạo cộng đồng Hồi giáo. Trong các chuyến đi thăm các tỉnh ngoài Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, các quan chức Đại sứ quán và Tổng Lãnh sự quán Mỹ thường làm việc với ủy ban về các vấn đề tôn giáo tỉnh, các trưởng làng, tăng lữ địa phương và các tín đồ. 

lên đầu trang ^

Công cụ:

Printer_icon.gif In trang này

- Nội dung -

Bản tiếng Anh




 

    Trang Web này được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ quản lý.
    Chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung và tính bảo mật thông tin của các trang Web khác được liên kết đến.


Đại sứ quán Hoa Kỳ